Tôi viết những trang đầu tiên cho cuốn gia phả của mình, bạn đọc cần thì góp ý thêm cho mình xin ý kiến nhé? Cảm ơn!
Hộp thư: tranviet184@gmail.com
GIA PHẢ
ĐẠI TỘC
TRẦN
ĐẠI TỘC
TRẦN
LỜI GHI NHỚ !
Công đức Tổ Tôn nghìn năm thịnh!
Hiếu hiền con cháu vạn đời ngay!
Gia tộc Đại Trần chúng ta đã có lịch sử hơn
914 năm hình thành và phát triển, dòng họ - Tổ Tiên chúng ta anh hùng, bất
khuất, và đã lưu danh những trang vàng chói lọi nhất trong lịch sử Việt Nam,
tôi xin có đôi lời nhắn lại và yêu cầu cùng nhau thực hiện như sau.
Tổ Tiên họ Trần chúng ta có lịch sử lâu đời,
từ cụ Thủy Tổ Khảo (*) TRẦN QUỐC KINH chúng ta đến nay, dòng họ
chúng ta đã đến đời thứ 31, và có hàng triệu các chi nhánh với hàng mấy chục
triệu người, Họ Trần chúng ta có mặt trên mọi miền đất nước Việt Nam, gia tộc
chúng ta hiện nay còn lưu giữ được rất nhiều nhà thờ họ. Ngoài ra còn có rất
nhiều đền thờ, lăng, miếu…, là nơi thờ tự Tổ Tiên của con cháu, của nhân dân
thập phương đi về thờ phụng Tổ Tiên tăng tình thân tộc, ấm áp tình người. Những
di tích lịch sử, nơi thờ phụng do Tổ Tiên chúng ta, nhân dân ta và con cháu đời
này qua đời khác xây dựng, bảo tồn, bảo trì ngày càng to đẹp. Mặc dù gia tộc
Đại Trần chúng ta trải qua biết bao biến cố thăng trầm của lịch sử và của thời
gian, nhưng vẫn không làm mờ đi cốt cách truyền thống của dòng họ, đây chính là
nhờ Tổ Tiên chúng ta và con cháu đời đời luôn trân trọng, giữ gìn “HÀO KHÍ ĐÔNG
A” (**), bản sắc văn hóa của Đại Tộc TRẦN chúng ta.
Với đất nước ta, gia tộc chúng ta đã sinh ra rất nhiều người con ưu tú trong sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc, qua mọi thời đại phát triển kinh tế, văn
hóa, khoa học kỹ thuật của đất nước. Đây chính là nhờ phúc ấm của Tổ Tiên, con
cháu từ đời này qua đời khác luôn gìn giữ, dựng xây và nỗ lực vươn lên, chúng
ta tự hào với truyền thống của dòng tộc, gia tộc, với cội nguồn Tổ Tiên, chúng
ta cùng giữ gìn phát huy truyền thống của dân tộc ta, của dòng tộc ĐẠI TRẦN
chúng ta. Đây là bổn phận của mỗi người con họ Trần.
Cuốn “GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN” do tôi biên soạn lần này đã trình bầy cụ thể
một dòng họ, một chi họ, một gia đình, và đây là một cuốn lịch sử, cuốn gia phả
đầu tiên của một dòng họ, của một chi họ, của một gia đình. Tôi là một kỹ sư kỹ
thuật và do tài liệu có hạn nên lần biên soạn này sẽ có sơ sót, tôi mong rằng
sau này nếu ai biên soạn, sao, hay lập lại sẽ bổ sung đầy đủ hơn. Mọi chi họ
khi viết gia phả cần làm theo cách mã số như cuốn gia phả này, khi đọc cần ghi
nhớ chi họ mình là Đại chi mấy, Chi mấy, có tất cả 3 Đại chi và có 9 chi đời
thứ 4/24. Tôi xin nêu những yêu cầu mà mọi chi họ, gia đình cần phải làm như
sau:
1)- Tôi biên soạn lần này đã in lần thứ nhất năm
2012 (***) ra 2 bản gốc đã tặng cho các chi gồm: Ông
Trần Đình Nguyên - Trưởng tộc đời thứ 10/30 chi 1, ông thuộc chi
1, đời thứ 28 và
Cụ Trần Khắc Thêm đời thứ 9/29, cụ là chi 4 trong đời thứ 8/28; Lần thứ 2 tôi in thêm 4 quyển gốc nữa gồm:
Hai cuốn tặng cho con trưởng của tôi là Trần Đình Quân và con thứ Trần Đình
Khánh An (Đời thứ 11/31); Tặng cho ông Trần Đình Phúc chi 2, đời thứ 10/30, (Về ông ghi trong đời thứ 9/29) và tặng cho cụ Trần Nhật Độ, Chi 1, đời thứ 9/29 (Cụ thuộc Chi 2, đời thứ 5/25 Thủy Tổ Khảo Trần Đình Cử). Từ 6 bản gốc này, các gia
đình nào chưa có
-------------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Chữ “Khảo” chỉ theo dòng trực hệ sinh ra
sau. Ví dụ cha tôi mất tôi gọi là Hiền Khảo.
(**)- Chữ
ĐÔNG A được triết tự từ chữ Trần (陳) ra
hai chữ Đông và chữ A mà thành.
(***)- Tôi đã in 2 quyển này trước và lấy tên
là “ĐẠI TỘC TRẦN TÂN PHẢ”và đã gửi đến tay cụ Thêm (Tháng 7-2013) và ông Nguyên
(Tháng 11+-2013). – Còn 4 quyển
in đợt 2 năm 2015.
gia phả cần phải foto, hay sao lại, hay lập lại cho gia
đình mình trên cơ sở lấy sáu quyển này làm gốc. Dòng trưởng lập gia phả của
dòng trưởng, dòng thứ lập gia phả của dòng thứ, mọi chi họ cần có cách viết, cách đánh số thứ tự (*), cách trình bầy như 6 cuốn gia phả này để
thống nhất chung và để số thứ tự từng người trong tất cả các cuốn gia phả trong
họ khi đọc gia phả mọi người
đều hiểu được là
như nhau. Nếu foto thì ghi chú ngày tháng năm, từ quyển gốc
nào, bao nhiêu
quyển, cho ai để cả họ biết số lượng gia phả trong họ, nếu chuyển sang quyển
khác cần viết ghi chú vào phần cuối cùng của quyển cũ, và đầu quyển mới.
2)- Không được tự ý sửa chữa, gạch, xóa nội dung
mà chỉ đánh dấu vị trí (Kể cả bản foto), muốn thêm hay sửa thì ghi xuống ở cuối
mỗi đời, hay trang sau, hay đính kèm thêm một tờ khác, nếu sao chép và
lập mới thì mới thay đổi, chỉnh sửa nội dung và biên soạn lại. Sáu quyển này là lần in thứ
nhất, các quyển làm lần sau thì ghi là tái bản lần thứ hai có bổ sung, lần thứ
ba … và phải ký, ghi dõ tên người đứng ra in, số lượng quyển trước khi giao.
3)- Ngày nay mỗi gia
đình chỉ sinh một hay hai con, vì vậy bậc cha mẹ phải có trách nhiệm truyền dậy
cho các con, các cháu không được để gia đình mình thất truyền. Tất cả các con,
cháu, chắt phải học cách tính toán trong kế hoạch hóa gia đình và xây dựng gia
đình hạnh phúc, thịnh vượng. Mọi gia đình, mỗi đời phải có trách nhiệm ghi chép
bổ sung liên tục vào gia phả và tìm hiểu, báo cho mọi người trong họ biết để
cùng bổ sung thêm.
4)- Mỗi gia đình phải là một pháo đài che chắn
cho con cháu, là điểm tựa vững chắc cho con cháu tu thân, tích đức và vươn ra
ngoài xã hội. Mỗi gia đình phải giáo dục truyền thống của Tổ Tiên, của dòng họ,
một dòng họ anh hùng nhất lịch sử Việt Nam và thế giới. Một dòng họ có “HÀO KHÍ
ĐÔNG A” toả sáng ngời.
5)- Gia phả là lịch
sử của một gia tộc, một dòng họ, một gia đình vì vậy không được coi cuốn gia
phả như các sách phổ thông khác. Mọi nhà phải bảo quản, cất giữ ở nơi trang
trọng (Như nơi thờ cúng,…). Cần phải trang nghiêm, trân trọng khi mang ra đọc
hay ghi chép bổ sung hay ghi lại công đức của mọi người, nếu gia đình nào mà
thất truyền, nếu có quyển gia phả thì khi về già phải gửi lại gia phả
cho tộc trưởng hay nhà anh em họ hàng có con trai để bảo quản giữ gìn và để
trao cho những nhà chưa có gia phả.
Gia phả là gia bảo, là lịch sử của gia tộc,
của dòng họ, của gia đình, có gia phả trong nhà là có điểm tựa tinh thần cho
con cháu, là niềm tự hào của con cháu, của một dòng họ. Một dòng họ, một chi
họ, một gia đình đông vui hạnh phúc, nội thất không thiếu gì nhưng nếu chưa có
gia phả thì chưa đủ điều kiện sang và trọng.
-
MAIL: tranviet184@gmail.com
- SỐ 184 ĐƯỜNG LÁNG, P. THỊNH QUANG, Q.
ĐỐNG ĐA, TP. HÀ NỘI
- ĐT: 0902587395
Hà nội, ngày 29 tháng 6 năm 2015
BIÊN SOẠN
KS TRẦN
ĐÌNH VIỆT
Trưởng chi I – Đời thứ 2/10/30
-------------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Cách đánh số thứ tự ví dụ
tôi là: 30-5-1 tức là: Số 30 tôi là đời thứ 30; Số 5 là cha tôi là người con
trai thứ 5 trong gia đình ông nội tôi; Số 1 tôi là con trai đầu của bố tôi.
LỜI TỰA
Cây có gốc mới nẩy chồi xanh
ngọn,
Nước có nguồn mới bể cả sông sâu.
Người ta sinh ra đều có nguồn gốc, có Tổ Tiên, có các cụ, có ông
bà, cha mẹ, anh chị em, con, cháu …. Đó là nguồn gốc, là dòng giống, là huyết
thống, cứ như vậy kéo dài vô tận theo quy luật phát triển của xã hội. Dòng họ
TRẦN cũng như các dòng họ khác trên đất nước ta được thừa hưởng một kho tàng
lịch sử đồ sộ, những biến cố của xã hội, của dòng họ đã được ghi lại trong lịch
sử, với dòng họ còn được lưu lại trong gia phả của các dòng họ, các văn bia
trong nhân gian, đây chính là một kho tư liệu vô tận chưa thể tìm hiểu khám phá
hết được. Họ Trần chúng ta chưa có cuốn gia phả đầy đủ nào nên tôi lập cuốn “GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN” này gồm có bốn
phần, mỗi phần là một giai đoạn lịch sử của dòng họ, ghi lại cụ thể một dòng trực hệ của
một chi họ, một gia đình. Tôi lược qua quá trình biên soạn cuốn gia phả của họ Trần chúng ta ở xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà
Tĩnh và ngày nay ở tại số 184 đường Láng, phường Thịnh Quang,
quận Đống Đa, TP Hà Nội như sau.
Tôi bắt đầu tìm
hiểu, ghi chép các tư liệu về họ từ năm 1996 cho tới nay ghi ra bản nháp, sau
đó đánh máy lưu vào máy tính bổ xung dần hàng năm, cuốn gia phả này tôi biên
soạn là cuốn gia phả đầy đủ đầu tiên của dòng họ chúng ta, do tài liệu sưu tầm có hạn nên việc tổng hợp còn hạn chế, tôi mong rằng mọi
người biên soạn lần sau sẽ hoàn thiện hơn.
Họ
TRẦN của chúng ta được sử sách cũng như các cuốn gia phả, bút tích ghi lại có Cụ
Thủy Tổ Khảo của dòng họ là Cụ TRẦN QUỐC KINH, Cụ sinh vào khoảng năm 1103, là
Cụ Thủy Tổ Khảo đầu tiên của dòng họ chúng ta, một dòng họ anh hùng đã ba lần
đánh tan quân Nguyên Mông, quân Nguyên Mông đã chinh phục toàn thế giới tới
châu Âu. Dòng họ ta cũng có những thăng trầm theo thời gian, Tổ Tiên ta đã để
lại những trang vàng chói lọi trong kho tàng lịch sử Việt Nam, trên các tấm bia
đá, các thần tích, thần sắc, các sắc phong của các đời vua về sau, ngoài ra còn
cả một kho các gia phả của các chi họ trong nhân gian truyền lại. Tôi tóm tắt lược
qua về các cuốn gia phả là tài liệu tham khảo chính của tôi trong quá trình
biên soạn gia phả như sau:
- Về cuốn “TRẦN
TỘC TÂN PHẢ” được biên soạn rất công phu, tôi xin lược qua như sau: Theo
biến cố của lịch sử cũng như biến cố của dòng họ ta, có những giai đoạn bị đứt
quãng, không ghi chép lại được gia phổ, trước sự thực này, trong họ TRẦN ta có
nhiều cụ tâm huyết đã không quản khó khăn, thiếu thốn, đã bỏ ra công sức và
tiền của đi tìm và chắp nối gia phả họ Trần ta. Họ TRẦN ta ở vùng Thanh - Nghệ -
Tĩnh bị thất lạc gốc Tổ, không biết gốc Tổ ta từ đâu, sau hơn hai chục năm đi
tìm kiếm, chắp nối các chi họ Trần lại, từ Sơn Đông, Lập Thạch, tới Tống Sơn,
Thanh Hóa rồi đến Yên Thành, Nghệ An với vô vàn gian nan, vất vả. Các cụ lão
tộc nhiệt tâm với Tổ Tiên, có trách nhiệm với con cháu tiêu biểu đi tiên phong
là cụ Trần Thanh San, cụ Trần Miễn, cụ Trần Đức Đam, rồi cụ Trần Thăng Long, cụ
Trần Hàm, cụ Trần Võ, cụ Trần Văn Tiệp, cụ Trần Văn Thành, cụ Trần Hỉ, cụ Trần
Thiền, cụ Trần Vũ Hoàn, cụ Trần Khuông, Trần Linh và gần đây là các ông Trần
Hiên, Trần Đẩu, Trần Viết Kỳ trong Hội đồng gia tộc Trần Nguyên Hãn tiếp tục tìm kiếm chắp nối. Sau nhiều năm tìm
kiếm sưu tầm được rất nhiều tài liệu sử phả, cụ Trần Thanh San đã biên soạn lại
và lập ra cuốn “TRẦN TỘC TÂN PHẢ”, qua cuốn gia phả
này, dòng họ Trần ta đã được chắp nối đầy đủ từ đời thứ nhất tới đời thứ 20, từ
Thủy Tổ Khảo TRẦN QUỐC KINH đến Thủy Tổ Khảo TRẦN THÁI TÔNG, đến Thủy Tổ Khảo TRẦN NGUYÊN HÃN, rồi Thủy Tổ Khảo TRẦN ĐĂNG CHẤT,
từ cuốn gia phả này là tài liệu chính để tôi biên soạn phần I và II của cuốn
“GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN”.
Nhân dịp họp họ Trần xã Sơn Thịnh chúng
ta ở Hà Nội đầu xuân 2013, cụ Đào Trần Quang Cát - Thiếu Tướng, trưởng ban liên lạc dòng họ
Trần Nguyên Hãn(*) có bài viết về “Thân
thế, sự nghiệp đức Tả tướng Quốc Trần Nguyên Hãn” và thông tin chính thức về
các dòng họ Trần chúng ta.
- Về
cuốn“GIA PHỔ HỌ TRẦN”của chi họ chúng
ta được Cụ Trần Đình Đắc – Cụ thuộc
chi 3 đời thứ 27 Cụ Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm, chi 2 đời thứ 28, là chi 1 đời
thứ 9/29(**) đã sao và lập lại năm 1971, trong đó từ đời Cụ Thủy Tổ Khảo thứ
14 Trần Thiện Tính đến đời thứ 4/24 Cao Cao Cao Tằng Tổ Khảo Trần Bá Phấn do
cha của cụ Đắc là Tổ Trần Khắc Hoành đời
thứ 8/28 (Tôi gọi là ông trẻ) đã sao trích từ gia phả họ Trần ở làng Diệu Ốc,
xã Giai Lạc, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An tháng 8-1933 và cụ đã lập thêm bốn đời, từ đời thứ 21 đến
đời thứ 4/24 ở làng Thịnh Xá. Từ đời thứ 5/25 do Cụ Trần Đình Đắc lập theo gia
phả của chi họ nhà cụ. Đây là cuốn gia phả chính để tôi biên soạn phần III, nếu
các thông tin giữa các cuốn gia phả trong họ khác nhau thì tôi lấy theo thông
tin của cuốn này, các thông tin ở các cuốn khác chỉ để tham khảo.
- Về
cuốn“GIA PHẢ, GIA TỘC HỌ TRẦN”ghi
lại cả họ Trần ta ở xã Sơn Thịnh sau hơn 10 năm đã hoàn thành, họ Trần xã Sơn
Thịnh ở Hà Nội cùng ban biên soạn gồm các cụ: 1. Cụ Cố Trần Đình Dục - Ủy viên; 2. Cụ Trần Hoành Đại tá - Trưởng ban; 3. Cụ Trần Nhật Độ - Đại tá - Nguyên Trưởng ban Liên lạc họ
Trần ở Hà Nội - Phó ban; 4. Cụ Trần
Xuân Kiều - Đại tá - Ủy viên; 5. Ông
Trần Thanh Tịnh - Nguyên Giám đốc - Trưởng ban Liên lạc họ Trần ở
Hà Nội - ủy viên. Hoàn thành bản nháp xong, Cụ Kiều đánh máy thành 6 phần tôi
ghép các phần lại và sưu tầm thêm hình ảnh đưa vào, sau đó tôi đã in ra 3 bản
nháp gửi mọi người trong họ hiệu đính bổ xung thêm năm 2012, sau khi tôi bổ
xung thêm Cụ Trần Xuân Kiều và tôi kiểm tra hiệu đính lại, tôi đưa đi in chính
thức 10 bản năm 2013. Từ thông tin của cuốn này góp phần mở rộng các thế hệ con
cháu của các đời trong phần III.
Qua các cuốn gia
phả Tôi tìm hiểu, Cụ Thủy Tổ họ TRẦN đều được ghi lại từ đời Thủy Tổ Khảo TRẦN
QUỐC KINH, từ Thủy Tổ Khảo Trần Quốc Kinh trở về trước là sự tích, chưa có cuốn
gia phả nào ghi lại mà chỉ tìm hiểu qua các thông tin của các nhà nghiên cứu
lịch sử. Vì vậy tôi lập cuốn gia phả này cụ Thủy Tổ Khảo đầu tiên của họ TRẦN
chúng ta là Cụ Thủy Tổ Khảo TRẦN QUỐC KINH, từ cụ Thủy Tổ Khảo năm 1103 đến nay
ngày 29-6-2017, dòng họ TRẦN ta có 31 đời, trong chi họ là 32 đời.
Từ những
dữ liệu chính của ba cuốn:“TRẦN TỘC TÂN PHẢ”,“GIA PHỔ HỌ TRẦN”,“GIA PHẢ, GIA
TỘC HỌ TRẦN”, tôi đã sao, trích dẫn, biên soạn lại và bổ xung thêm từ gốc Thủy
Tổ Khảo đời thứ nhất đến đời
-----------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Cụ
Đào Trần Quang Cát có gốc thuộc một nhành của đời sau Tổ Trần Nguyên Hãn đã đổi
sang họ Đào hiện ở Việt Trì tỉnh Phú Thọ.
(**)- Cụ
Đắc cùng chi họ đời 27 của chúng ta, còn ghi ví dụ là đời thứ 9/29 trong đó:
Cặp số trước là 9 chỉ cụ là đời thứ 9 ở xã Sơn Thịnh và cặp số 29 cụ này là đời
thứ 29 của dòng họ Trần chúng ta.
thứ 27 (Tằng Tổ Khảo Trần Xuân
Cẩm). Từ đời thứ 28 (Tổ Khảo) đến nay do
tôi biên soạn theo lý lịch và lời kể của Hiền Khảo lập thành cuốn “GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN”.
Ngoài ra tôi còn
tham khảo cuốn “GIA PHẢ HỌ TRẦN”của cụ Trần Đình Khoa (Cụ thuộc chi 2 đời 26 cụ
Trần Văn Nhạ), cuốn gia phả của cụ Trần Văn Uyên (Cụ thuộc chi 2 đời 27 Cụ Trần
Bá Đính), các dữ liệu lịch sử, các cuốn sách, tạp chí, các thông tin về các
cuộc hội thảo khoa học lịch sử, thông tin của các nhà nghiên cứu lịch sử về đời
nhà Trần, các ảnh tự chụp, chụp lại và hình ảnh trên mạng xã hội …. Do các tài
liệu, dữ liệu lệch nhau hay chưa phù hợp về thời gian, không gian nên tôi phải
hiệu đính lại, tính cho phù hợp, đảm bảo tính liên tục của dòng họ và đúng theo
dòng lịch sử dân tộc Việt nam. Với tâm huyết của mình phải lập cuốn gia phả đầy
đủ nhất, hoàn chỉnh nhất, do tôi là kỹ sư kỹ thuật hàng không, với khả năng của
mình cũng như tài liệu có hạn nên không tránh khỏi thiếu sót. Tôi mong rằng các
cụ, các ông, các cháu, sẽ tiếp tục góp ý bổ sung và lập cho chi họ mình một
cuốn gia phả hoàn chỉnh nhất, đầy đủ nhất.
Tiếp nối truyền thống
của Tổ Tiên, của các cụ cao niên đã làm, tôi lập xong cuốn “GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN ” này và đã in ra làm 6 cuốn gốc tặng cho các
chi như sau:
- Chi 3 đời thứ 1/9/29(*) của Hiền Khảo Trần Đình Phú là đời thứ nhất ở Hà nội, cụ có ba
người con trai, và có ba cháu trai nên tôi làm ba cuốn: Tôi là con trưởng đời
thứ 2/10/30 có 2 con trai là: Một cuốn (quyển 1/6) cho con trưởng - Cháu đích
tôn đời thứ 31 Trần Đình Quân và một cuốn (quyển 2/6) cho con trai thứ Trần
Đình Khánh An đời thứ 3/11/31;
- Một cuốn (quyển 3/6) cho ông Trần Đình Phúc - chi 2, đời thứ 2/10/30 có một con trai là Trần Tuấn Anh đời thứ 3/11/31;
- Tôi biên soạn hộ và in tặng (quyển 4/6) cho
cụ Trần Nhật Độ (Cụ chung một Kỵ với Hiền Khảo
Cụ Cao Cao Tằng Tổ Khảo Trần Đình Cử đời thứ 25) - Thuộc chi 2 đời thứ 26, chi 1
đời thứ 27, chi 2 đời thứ 28, chi
1 đời thứ 9/29;
- Ngoài ra tôi đã in tặng năm 2012 (quyển 5/6)
cho ông Trần Đình Nguyên (Ông là anh con Bá Khảo) – Thuộc chi 1, đời thứ 8/28, chi 1 đời thứ
29, là chi 1 đời thứ 10/30 trưởng tộc ở quê và tặng (quyển 6/6) Cụ Trần Khắc
Thêm là chú ruột thuộc
chi 1 đời thứ 8/28, là chi 4 đời
thứ 9/29, hiện sống ở Ấp 1, xã Hòa Hội,
huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Sau khi in, sang năm 2016 trở đi tôi
tiếp tục bổ xung vào gia phả cho đầy đủ để in lần 3 sau này.
- Năm 2016 tôi đã gửi cho ông Trần Danh Lâm con
cụ Thêm và cháu Hùng con ông Nguyên phần III gia phả dòng họ Thủy Tổ Khảo Trần
Đăng Nhàn qua thư điện tử để lưu.
- Tháng
12-2016 tôi đã đưa cho ông Bình con cụ Trần Đông ở Tân Thành, Sông Công, Thái
Nguyên quyển nháp khi lập cuốn “Gia phả, gia tộc họ Trần” và biên soạn tóm tắt
phần gia phả cho nhà ông Bình ông là chi 2 đời thứ 10/30, thuộc Đại chi 3 chi 9:
Cụ Tam đại Trần Nhật Chiếu, cụ Tứ Đại Trần Đình Bảo).
- Tháng 4-2017 tôi gửi qua email phần III gia
phả dòng họ cho ông Trần Bình đời thứ 10/30 hiện nay ở xóm Ninh Xá, xã Sơn Ninh,
(Ông là anh con Bá Khảo) và gửi qua email cho cháu Toàn là con trai ông Bình phần
III cuốn gia phả này và cuốn “Gia phả, gia tộc họ Trần”của họ Trần chúng ta ở
xã Sơn Thịnh.
------------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Nếu
ghi ba cặp số ví dụ là: đời thứ 1/9/29 là đánh số đời của vị đó, trong đó: Cặp
số đầu là số 1 là đời thứ nhất ở Hà Nội, cặp thứ 2 là số 9 - đời thứ 9 ở Sơn
Thịnh và cặp số 29 - đời thứ 29 của họ Trần Việt Nam.
Với tinh thần hướng
về cội nguồn tôi mong sao từ 6 cuốn “GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN” này về sau không một chi họ nào, một gia đình
nào là không có gia phả, không chi họ nào để ngắt quãng hay mất gốc Tổ, có cuốn
gia phả trong nhà là giữ gìn truyền thống tốt đẹp của Tổ Tiên, có cuốn gia phả
là đã tiếp thêm niềm tin cho con cháu mạnh mẽ hơn, hùng cường hơn, khi có gia
phả phải được bổ sung liên tục, phải bảo quản giữ gìn, cất giữ ở nơi trang
trọng như nơi thờ cúng ... Khi gia đình nào không có con trai thì gửi lại cho
anh em, họ hàng có con trai để cất giữ, bảo quản và trao lại cho những gia đình
chưa có gia phả. Tất cả hậu duệ con cháu chúng ta phải hướng về Thủy Tổ Khảo
Trần Đăng Nhàn đời thứ 1/21 ở xã Sơn Thịnh và Hiền Khảo cụ Trần Đình Phú đời
thứ 1/9/29 ở Hà Nội. Tôi hy vọng đây là tài liệu sử phả, gia phả cho tất cả con
cháu hậu duệ của họ Trần, của Thủy Tổ
Khảo Trần Thái Tông, Thủy Tổ Khảo Trần Quang Khải, Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên
Hãn, Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn, Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm và Hiền Khảo Trần
Đình Phú.
Chúng ta là con cháu họ TRẦN, chúng ta luôn luôn tự hào với
truyền thống anh hùng, bất khuất của Tổ Tiên chúng ta, chúng ta trân trọng và
biết ơn Tổ Tiên chúng ta, các cụ lão tộc trong dòng họ đã dày công biên soạn và
lập những cuốn gia phả để lại cho thế hệ sau. Tôi tin rằng từ nay mọi gia đình
họ Trần chúng ta đều có cuốn gia phả trong nhà và luôn được ghi chép bổ sung
đầy đủ. Con cháu họ TRẦN chúng ta sẽ phát huy “HÀO KHÍ ĐÔNG A” cùng thương yêu, đoàn kết, gắn bó, nhân ái, phấn
đấu cùng làm rạng danh dòng họ TRẦN đã
có lịch sử hào hùng, có gần nghìn năm văn hiến. Cụ Trần Nhật Độ đã tặng câu
đối:
“TRẦN GIA PHÚC ẤM MUÔN ĐỜI
THỊNH
HÀO KHÍ ĐÔNG A VẠN THẾ
TRUYỀN”(*)
Hà Nội,
ngày 29 tháng 6 năm 2015
BIÊN SOẠN
KS TRẦN
ĐÌNH VIỆT
Trưởng chi 1 - Đời thứ 2/10/30
--------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Đôi câu đối này ban đầu cụ Trần Nhật Độ ghi là “TRẦN GIA PHÚC ẤM
MUÔN ĐỜI THỊNH – HÀO KHÍ ĐÔNG A VẠN NIÊN TRUYỀN”
PHẦN THỨ NHẤT
LỊCH
SỬ VÀ DÒNG
HỌ
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN QUỐC KINH
LỜI GIỚI THIỆU
LỊCH SỬ VÀ DÒNG HỌ TRẦN
Họ TRẦN ta xa xưa
có nguồn gốc thuộc các tộc người Bách Việt (Gồm các tộc người Mân Việt; Lạc
Việt; Đông Việt; Nam Việt; Âu Việt …) sống ở vùng đất Mân, thuộc nhóm tộc người
Mân Việt (Ngày nay là vùng Phúc Kiến – Trung Quốc). Họ Trần chúng ta có lịch sử
lâu đời, một dòng họ có tinh thần thượng võ, một dòng họ anh hùng, vẻ vang nhất
trong lịch sử nước ta cho đến ngày nay.
Năm 227 trước Công
Nguyên(*), Phương Chính hầu TRẦN TỰ MINH người tộc Mân Việt thuộc dòng Bách Việt, làm quan cho Triệu Đà đã di cư xuống phía nam do mâu thuẫn giữa
các tộc người Bách Việt với người Hán (Vì nhà Tần xâm chiếm đất của người Bách
Việt). Người Bách Việt di cư xuống phía nam, Thủy Tổ Trần Tự Minh theo dòng
người Bách Việt di cư xuống vùng Lạc Việt và được vua Hùng AN DƯƠNG VƯƠNG tin
dùng và trở thành tướng tài ba cùng tướng Cao Lỗ giúp vua chống lại Triệu Đà.
Sau biến cố của lịch sử, Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc, Tổ Trần Tự Minh lui về
sống ẩn dật ở đất Kinh Bắc. Qua khoảng 700 năm ở đất Kinh Bắc, dòng đích tôn
đến đời Tổ Trần Tự Viễn (Năm 582- 637) đã nổi danh kiệt xuất xứ Giao Châu có võ
công cao cường và cũng là đệ tử của Phật phái Thiền Tông được nhân dân sùng
kính. Cho đến đời Tổ Trần Tự An (Năm 1010-1077) đặt tên cho phái võ là “ĐÔNG A”(**) để phân biệt với các phái võ khác (Là phái Lĩnh Nam và phái Hoa
Sơn, phái võ Đông A và Hoa Sơn cùng xuất phát ở đất Kinh Bắc). Về sau, con của
Tổ Trần Tự An là Tổ Trần Tự Mai đã nghe theo lời cha dặn nên chuyển võ đường
Đông A về Đông Triều – Chí Linh nay là Quảng Ninh và Hải Dương.
Khoảng thế
kỷ XII đời Thủy Tổ Khảo TRẦN QUỐC KINH (Hay Trần Tự Kinh sinh khoảng năm 1103)
đã di cư xuống phía nam vùng đồng bằng sông Nhị Hà và dừng chân ở hương Tức
Mạc, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Sơn. Lúc đầu cùng với hai con trai là TRẦN (TỰ)
HẤP và TRẦN TỰ DUY có võ công cao cường, đi khẩn hoang và chiêu dân phát triển
ngày càng phồn thịnh lớn mạnh. Nhân một hôm Tổ Trần Tự Hấp phát hiện, vớt và
cứu chữa được thầy địa lý bị đóng bè thả trôi sông, nên thầy địa lý để tạ ơn đã
chỉ cho Tổ Trần Tự Hấp mảnh đất ở Thái Đường có linh khí hội tụ, nếu đặt mộ Tổ
vào đó ắt có ngày phát đế vương. Tổ Trần Tự Hấp nghe theo, xin cha đi về quê cũ
Kinh Bắc chuyển mộ cụ Tổ là TRẦN TỰ MAI về đặt ở Thái Đường để được phúc ấm và
chuyển hẳn gia quyến về đó sinh sống. Sau khi Tổ Trần Quốc Kinh mất phần mộ
được đặt ở Thái Đường mà thầy địa lý đã chỉ cho (***), nhờ vậy gia tộc họ TRẦN ngày
càng phát đạt, môn phái võ Đông A càng thêm hưng thịnh thu hút nhân tài khắp
nơi về tụ họp. Ở đất Thái Đường Tổ Trần Tự Hấp đã sinh ra Trần Lý, Tổ Trần Lý
sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung… Người em Tổ Trần Tự Hấp là
Trần Tự Duy (****) sống ở đất Lưu Xá bên cạnh vì
mâu thuẫn sâu sắc với họ Lưu đã tàn sát nhiều nên hao tổn âm khí chỉ sinh được Tổ Trần Thủ Huy,
---------------------------------------------------------------------------------------
(*);(****)- Tư liệu của ông Vũ Ngọc
Tiến - Về gia phả họ Trần Định Nhân - Đời 27 ở Nhạc Dương, bên hồ Động Đình, Hồ
Nam, Trung Quốc - Dòng họ Trần Ích Tắc đời thứ 6, trong “Trần Tộc Tân Phả”
trang 17 thì viết có khác nhau. -
Sau này cần tìm hiểu và hiệu chỉnh lại.
(**)- Chữ
“ĐÔNG A” được triết tự từ chữ Trần (陳)
ra hai chữ Đông và chữ A mà thành.
(***)- Theo “Trần Tộc Tân Phả” thì phần mộ Thủy Tổ
Trần Quốc Kinh ở gần phía nam cầu Nghĩa Trang sông Mã ở đất Thanh Hóa.
đời Tổ Trần Thủ Huy sinh được Tổ Trần Thẩm và Tổ Trần Thủ Độ thì thất truyền.
Đầu thế kỷ XIII, cơ
đồ Triều Lý đang dần suy yếu, nội chiến xảy ra, năm 1209 vua nghe theo lời
phỉnh nịnh của kẻ gian thần đã giết hại công thần Phạm Bình Di, người từng có
công đi dẹp loạn, nên bị tướng của Phạm Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân đến đánh
phá thành Thăng Long trả thù cho chủ tướng của mình. Vua Lý Cao Tông hoảng sợ
đem gia quyến chạy lên Tam Nông - Phú Thọ, còn Hoàng tử nhà Lý là Hạo Sảm thì
chạy về Hải Ấp làng Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lánh nạn. Ở Hải Ấp,
Thái tử biết được con gái của Thủy Tổ Khảo Trần Lý là Trần Thị Dung rất xinh
đẹp, Hoàng tử Sảm bèn cậy Tổ Tô Trung Từ (Con trai Đức Tổ Thái Úy Tô Hiến
Thành) là em vợ của Thủy Tổ Khảo Trần Lý làm mai mối để cưới Tổ Trần Thị Dung.
Khi đã cưới được Tổ Trần Thị Dung, Hoàng tử Sảm liền phong cho Thủy Tổ Khảo
Trần Tự Lý tước Minh Tự, Tổ Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ, bắt đầu từ
đây (Năm Kỷ Tỵ-1209), giđình Thủy Tổ Khảo Trần Lý bắt đầu tham gia chính sự.
Năm Canh Ngọ (1210), Thủy Tổ Khảo Trần Lý đã cùng các người con, cháu của mình
chiêu tập hương binh đem đi đánh dẹp loạn Quách Bốc. Tháng 3 năm ấy, Thủy Tổ
Khảo Trần Tự Lý đã chết trong trận chiến đấu này. Người con thứ của Thủy Tổ
Khảo Trần Lý là Tổ Trần Tự Khánh thay cha cầm quân giúp Hoàng tử Sảm khôi phục
Kinh thành, rồi lên Tam Nông, Phú Thọ rước vua Lý Cao Tông về cung. Năm sau
(1211) vua Lý Cao Tông qua đời, Lý Hạo Sảm lên ngôi thay Vua Cha, lấy hiệu là
Lý Huệ Tông và phong cho Tổ Trần Tự Khánh làm Thuận Bá Lưu, qua năm sau nữa
(1212) lại tiếp phong cho Tổ Trần Tự Khánh làm Chương Thành Hầu. Tháng chạp năm
Bính Tý (1216) anh trai của Tổ Trần Tự Khánh là Thủy Tổ Khảo Trần Thừa được
Triều đình nhà Lý phong làm Nội Thị Phán Thủ. Tháng Chạp năm Quý Mùi (1223) Tổ
Trần Tự Khánh qua đời, được Vua nhà Lý truy phong “Kiến Quốc Đại Vương” và
phong cho Thủy Tổ Khảo Trần Thừa làm “Phụ Quốc Thái úy”. Năm sau, năm Giáp Thân
(1224) Vua Lý Huệ Tông phong Công chúa Lý Chiêu Hoàng làm Thái tử, giao cho
người em họ của Hoàng hậu Trần Thị Dung là Tổ Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy
sứ, cầm đầu tất cả quân cấm vệ của triều đình, về trật tự thứ bậc, chức quan đó
chưa phải một chức quan có hàm tước cao nhất, nhưng trong thực tế thời loạn lúc
bấy giờ, đó là chức có quyền uy mạnh mẻ hơn cả. Thế lực của nhà Trần ngày càng
lớn, lấn át tất cả quan lại trong triều, cho đến khi Thủy Tổ Khảo Trần Cảnh kết
duyên cùng với vua bà Lý Chiêu Hoàng, đến ngày 01-12 năm Ất Dậu (10-01-1226),
Vua Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, Vua cởi bỏ áo ngự và mời (Thủy
Tổ Khảo TRẦN CẢNH) chồng mình lên ngôi Hoàng Đế. Đến ngày 12/12 Ất Dậu nhận
thiền vị của Chiêu Hoàng, lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung, lấy
miếu hiệu Trần Thái Tông. Thủy Tổ Khảo Trần Thừa thân phụ của Thủy Tổ Khảo Trần
Cảnh được Triều đình giao cho trọng trách điều khiển mọi công việc triều chính,
vì Vua Trần Thái Tông lúc bấy giờ mới 8 tuổi. Tháng 10 năm 1226, Triều đình nhà
Trần đã đặt lễ tôn Thủy Tổ Khảo Trần Thừa làm Thượng Hoàng và bà chánh thất của
Thủy Tổ Khảo Trần Thừa là Thủy Tổ Tỉ Lê Thuận Thiên làm Quốc Thánh Hoàng hậu.
Thủy Tổ Khảo Trần Cảnh lên làm vua và các đời vua khác truy phong các cụ Thủy
Tổ Khảo: Trần Quốc Kinh (1103-1190?) là Mục Tổ Hoàng Đế, Trần Tự Hấp(1132-1210?)
là Ninh Tổ Hoàng Đế, Trần Lý(1151-1210?) là Nguyên Tổ Hoàng Đế, Trần
Thừa(1183-1234) là Chí Hiếu Hoàng Đế, miếu hiệu Thái Tổ.
Triều Đại nhà Trần là triều đại phong
kiến hùng mạnh nhất trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Trần Thái Tông lên
ngôi năm 1226 sau khi giành được quyền lực
từ tay nhà Lý và chấm dứt khi
vua Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi bị ép thoái
vị vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại
là Hồ Quý Ly tức Lê Quý Ly, tổng
cộng là 175 năm. Đây là triều đại có võ công hiển hách nhất trong
lịch sử phong kiến Việt Nam, với ba lần đánh thắng
các cuộc xâm lược của quân Mông Cổ cũng
như triều đại nhà Nguyên Mông vào các năm 1258, 1285, và 1288. Một đội quân xâm lược bất khả chiến bại lúc bấy giờ, vó
ngựa của họ rượt đến đâu cỏ không mọc được đến đó, lần lượt vùng Trung Á, đất
Ba Tư đến châu Âu rồi nước Kim, Hạ, Tống, Cao li,… cúi rạp thần phục và do những viên tướng dày dặn kinh
nghiệm chiến trường chỉ huy, cùng với nhiều cuộc chiến tranh chinh phạt các
quốc gia láng giềng như Ai Lao, Chiêm Thành. Dưới triều Trần, lực lượng quân
đội được phát triển mạnh, đánh dẹp các cuộc nổi loạn và
đương đầu với quân đội các nước lân bang, triều Trần đã sản sinh nhiều nhân vật
xuất chúng, đặc biệt là trong lĩnh vực quân sự. Đội ngũ tướng lĩnh nòng cốt lại chính
là các tướng trong hoàng tộc nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các hoàng
tử, thân tộc nhà Trần, ngoài lòng yêu nước và bảo vệ quyền lợi dòng tộc, số
lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Dòng họ Trần ta là dòng họ cai
trị duy nhất có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công hiển hách nhất,
đặc biệt là thế hệ thứ hai như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật,…, đều là những tên tuổi kiệt xuất
trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa kể tới như Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản, .... Tiếp sau là đến
Thủy Tổ Khảo Chương túc quốc Thượng hầu - Đại tư đồ Trần Nguyên Đán có công lớn
dẹp loạn Dương Nhật Lễ để giữ vững nhà Trần. Cuối thế kỷ 14, lịch sử thay đổi
kết thúc một giai đoạn lịch sử hào hùng của dòng họ chúng ta, dòng họ ta tiếp
bước sang một giai đoạn khác và kết thúc phần một sang phần 2.
BỘ TỘC TRẦN - HỌ
TRẦN ta đi vào lịch sử và trường tồn theo lịch sử dân tộc Việt Nam. Họ Trần
chúng ta đã làm nên những bản anh hùng ca bất hủ nhất trong lịch sử Việt Nam và
thế giới. Một dòng họ có tinh thần thượng võ nhất, một dòng họ có “HÀO KHÍ ĐÔNG A” tỏa sáng chói lọi nhất,
huy hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam. Do vậy, thế hệ chúng ta ngày nay phải
trân trọng, giữ gìn, xây đắp muôn đời nối tiếp truyền thống của Tổ Tiên.
Hà Nội, ngày
29 tháng 6 năm 2015
BIÊN SOẠN
KS TRẦN ĐÌNH VIỆT
Trưởng chi 1 - Đời thứ 2/10/30
ĐỜI THỨ NHẤT
THỦY
TỔ KHẢO
TRẦN QUỐC KINH
ĐỜI
THỨ - 2
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN TỰ HẤP
ĐỜI
THỨ - 3
THỦY
TỔ KHẢO
TRẦN LÝ
ĐỜI THỨ - 4
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN
THỪA
ĐỜI THỨ - 5
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN CẢNH
ĐỜI THỨ - 6
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN
QUANG KHẢI
ĐỜI
THỨ - 7
THỦY
TỔ KHẢO
TRẦN
ĐẠO TÁI
ĐỜI
THỨ - 8
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN
VĂN BÍCH
ĐỜI THỨ - 9
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN
NGUYÊN ĐÁN
ĐỜI THỨ - 10
THỦY
TỔ KHẢO
TRẦN
NGUYÊN ÁN
LƯỢC BẢN TIỀN BIÊN
GIA PHẢ CỦA THỦY TỔ HỌ TRẦN
Đ
Ờ
I
|
CÁC
BẬC THỦY TỔ KHẢO
|
CÁC
BẬC
THỦY TỔ
TỶ
|
CÁC
CON
CỦA
THỦY
TỔ
|
GHI
CHÚ
|
|||
1
|
TRẦN QUỐC KINH
Truy tôn là Mục Tổ Hoàng Đế
(1103-1190)
|
2-1- Trần Tự Hấp.
2-2- Trần Tự Duy.
|
Tổ Trần Tự Duy sinh Trần Thủ Huy, Tổ
Trần Thủ Huy sinh Trần Thủ Độ. Đến đời Tổ Trần Thủ Độ thì không có con trai.
|
||||
2
|
TRẦN
TỰ
HẤP
Truy tôn Cung vương Minh Tổ
Hoàng Đế
(1132-1210)
|
BÙI
ANH
HOA (*)
|
3-1-1
Trần Lý.
|
||||
3
|
TRẦN
LÝ
Truy tôn Chiêu vương Nguyên Tổ
Hoàng Đế
(1151-1210)
|
TÔ PHƯƠNG LAN
(Cháu gái Đức Tổ
Tô Hiến Thành)
|
4-1-1-
Trần Thừa
4-1-2- Trần Tự Khánh (An Thành hầu).
4-1-3- Trần Lễ.
4-1-4- Trần Thị Dung (1195- 1259) là Hoàng hậu cuối cùng của nhà Lý.
|
Di cư về
Hải ấp- Tả ngạn sông Luộc, Hưng Hà, Thái Bình. Vẫn làm nghề chài lưới
đánh cá
|
|||
4
|
TRẦN THỪA
Kiểm chuẩn long nhan triều
Lý. Thái Thượng Hoàng triều Trần
(1183-1234)
|
LÊ
THUẬN
THIÊN(**)- Thái
hậu Theo “Trần Tộc Tân Phả”,
|
5-1-1- Trần Liễu- An Sinh vương
5-1-2- Trần Cảnh (Tên là Trần Bồ)
5-1-3- Trần Nhật Hạo (Hiệu) - Khâm thiên vương.
5-1-4- Trần Dy Ái.
5-1-5- Trần Ba Liệt (***).
5-1-5- Công chúa Thụy Ba.
5-1-6- Công Chúa Trần Thị Thiên Thành.
|
||||
-------------------------------------------------------------------------------------
(*) - Sau này cần tìm hiểu lại.
(**)- Theo“Gia phả, gia tộc họ
Trần” tên là Tô Thị Quốc Khánh .
(***)- Trần Bá Liệt- Hoài Đức vương, ông
nội của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản (Ghi theo trong quyển “Hào khí
Đông A”- Thông tin họ Trần Việt Nam số 10/2007 do Ban Liên lạc họ Trần
Việt Nam ấn hành, lưu hành trong dòng họ).
|
|||||||
5
|
TRẦN
CẢNH
- Húy là Bồ
- Hiệu là
Trần Thái Tông
- Sinh 16-6-1218.
- Mất ngày 01/4
Bính Tí (1276)
|
Công Chúa LÝ
CHIÊU HOÀNG
Công Chúa
LÝ THUẬN THIÊN
Hoàng hậu
|
- Con của Tổ Tỉ Lý Thuận
Thiên:
6-2-1- Trần
Hoảng (1240-1290) - Hiệu là Trần
Thánh Tông.
6-2-2-Trần Quang Khải-Chiêu Minh vương
- Con của các
cung phi:
6-2-3- Trần Tỉnh mất sớm.
6-2-4- Trần Nhật Vĩnh- Chiêu Đạo vương.
6-2-5- Trần Nhật Duật (1225-1338) Chiêu Văn vương.
6-2-6- Trần Khánh Dư (?-1339) Nhân Huệ vương.
6-2-7- Trần Ích Tắc - Chiêu Quốc vương.
6-2-8- Trần Quang Xương - Chiêu Đại vương.
6-2-9- Trần Nhật Duy-Vũ Uy vương (**)
6-2-10- Trần Uất- Minh Hiển vương .
Các công chúa:
6-2-11- Thiên Thụy,
6-2-12- Thiên Thanh,
6-2-13- Thiên Bảo,
6-2-14- Thiên Dương,
6-2-15- Ngoan Thiền,
6-2-16- An Cơ (Tư).
|
||||
6
|
TRẦN QUANG KHẢI
- Chiêu Minh Đại vương, Tướng
quốc Thái úy, Thượng Tướng đại thần, sinh 1241, mất 03/7 Giáp Ngọ (1294)
|
TRẦN THỊ PHỤNG DƯƠNG Công Chúa 1244-1291
(Ứng
Thụy) Mất 23/3 Tân Mão.
|
7-2-1- Trần Đạo Tái là Văn Túc vương.
7-2-2- Vũ Túc
vương.
7-2-3- Trần Thị
Quỳnh Huy.
7-2-4- Trần Thị
Quỳnh Tư.
7-2-5- Trần Thị
Quỳnh Bảo.
7-2-6- Trần Thị
Quỳnh Thái.
|
Theo “TRẦN TỘC TÂN PHẢ” Thủy Tổ Tỉ là
Lê Ứng Thụy
|
|||
7
|
TRẦN ĐẠO
TÁI
- Văn Túc vương
|
TRẦN THỊ
BẢO TƯ
Công chúa
(Bảo Châu)
|
8-1-1 Trần Văn Bích (Con một)
|
Tổ Tỉ là con gái của Tinh Quốc vương Trần
Quốc Khang
|
|||
-------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Tổ Trần Quốc
Khang sinh trước nhưng là con của Tổ Trần Liễu.Muốn biết rõ hơn cần đọc thêm.
(**)- Có tài liệu cho là Trần Duy – Vũ Uy
vương là cha của Trần Quốc Toản.
|
|||||||
8
|
TRẦN
VĂN
BÍCH
- Uy túc công vương, Thái Bảo
|
-Công chúa TRẦN
THỊ THIÊN TRÂN
- Công
chúa
TRẦN THỊ HUY THÀNH
-
|
9-1-1- Trần Nguyên Đán.
9-1-2- Trần Nguyên Uyên.
|
- Công chúa Thiên Chân (Mất sớm) là con
vua Trần Anh Tông - Công chúa Huy Thành con Tổ Trần Cát Chân.
|
|||
9
|
TRẦN NGUYÊN ĐÁN
Chương túc quốc Thượng hầu - Thái sư - Đại tư đồ.
Sinh 1325, Mất 14/11/1390
|
10-1-1- Trần
Mộng Dư.
10-1-2- Trần
Thúc Giao.
10-1-3- Trần Thúc
Quỳnh.
10-1-4- Trần Nguyên Án.
10-1-5- Trần Thị
Thái (Ngọc Diệp)
10-1-6- Trần Thị
Thai (Đài).
|
-
Sinh Nguyễn Trãi
|
||||
10
|
TRẦN NGUYÊN ÁN
|
LÊ
THỊ HOÀN
|
11-4-1- Con trưởng bị Hồ Quý Ly sát hại cùng với bố là Tổ
Trần Nguyên Án.
11-4-2- Trần Nguyên Hãn.
|
Thời gian đầu hai mẹ con ẩn tránh
sau đó quay về sống ở làng Quan Tử - Đa Cai nay gọi là vùng Gốm, xã
Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc
|
PHẦN THỨ –
II
DÒNG
HỌ
THỦY
TỔ KHẢO
TRẦN
NGUYÊN HÃN
VÙNG THANH - NGHỆ - TĨNH
LỜI GIỚI THIỆU
Đức Thủy Tổ Khảo
Trần Nguyên Hãn là cụ Thủy Tổ của dòng họ chúng ta, từ Sơn Đông, Lập Thạch,
Vĩnh Phúc đã trải dài tới các vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh ngày nay, dòng họ đã
trải qua nhiều biến cố của lịch sử, từ nhà Hồ cướp ngôi diệt tận đến nỗi hàm
oan của Đức Thủy Tổ Trần Nguyên Hãn vì vậy mà cuộc sống của con cháu của Người
đã phiêu bạt khắp nơi, mai danh ẩn tích, thay tên đổi họ, … . Trong khó khăn dòng họ chúng ta càng thể
hiện sức sống mãnh liệt, duy trì bảo tồn dòng giống, dòng họ càng phát triển
vươn lên, với “Hào khí Đông A” càng tỏa sáng trói.
Trước nguy cơ thay đổi triều
đại, Cụ Thủy Tổ Trần Nguyên Đán không can dán được nhà vua đã lui về ở ẩn, và
đưa gia đình người con út là Trần Nguyên Án về Chí Linh, sau đó Thủy Tổ Trần
Nguyên Án lại di cư đến tại Quan Tử - Đa Cai, Lập Thạch, Vĩnh Phúc và người vợ
người đã sinh hạ Trần Nguyên Hãn là Đức Thủy Tổ Khảo của dòng họ ta. Đến năm
1400 Hồ Quý Ly cướp ngôi vua của cháu ngoại lập lên nhà Hồ, tiếp đến là nhà
Minh sang sâm lược, chiếm nước ta, vận nước xoay vần đến Thủy Tổ Khảo Trần
Nguyên Hãn, Thủy Tổ Khảo đã theo Lê Lợi đánh tan quân Minh giải phóng đất nước,
là công thần khai quốc.
Thủy Tổ Khảo được phong tới chức Thái úy, Tả Tướng Quốc Bình Chương Quân Quốc
trọng sự khu mật Đại sứ, nhưng sau đó bị hàm oan, một lần nữa dòng họ ta lại
mai danh ẩn tích, thay tên đổi họ trong hoàn cảnh khó khăn nhất, dòng họ ta vẫn
quật cường vươn lên. Năm Diên Ninh thứ nhất 1454 vua Lê Nhân Tông lên ngôi đã
minh oan cho Thủy Tổ Trần Nguyên Hãn là khai quốc công thần của nhà Lê, dòng họ
ta mới thoát nạn, những người đã để nguyên họ hay đổi họ ngày nay lập lên dòng
họ của Trần Nguyên Hãn của chúng ta. Với chi họ ta cụ Tổ chúng ta sau khi được
nhà vua trả tự do vợ con của người đã di cư về Nam Định, người con chính là
Trần Pháp Độ sau đó thi đỗ ra làm quan, về già nghỉ làm quan đã di cư cả nhà
vào Thanh Hóa, rồi Nghệ An, lập nên dòng họ Trần ở vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh
rộng lớn.
Cụ Thủy Tổ họ Trần chúng ta ở
vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh là cụ Pháp Độ Công Thủy Tổ Khảo Trần Pháp Độ (Tự là
Trần Quốc Duy)(*), sau khi hưu quan cụ đã
không về đất Tổ mà di cư cả gia đình vào Tống Sơn, Thanh Hóa nay là huyện Nga
Sơn, Hậu Lộc. Cụ lại để vợ và con thứ 2 là Trần Đạo Tín ở lại đưa hai con trai
thứ nhất và 3 vào vào sứ Cồn Dù, Phú Hữu nay là xã Nhân Thành, huyện Yên Thành,
tỉnh Nghệ An, sau một thời gian cụ lại đưa người con thứ nhất là Trần Công Sủng
trở ra chùa Sãi, thôn Kim Cốc nay là xã Mai Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Sau khi ổn định Cụ đi vào Nghệ An sống với người con út là Tổ Chân Thường tức
là Trần Thiện Tính, Cụ cùng với con cháu của và nhân dân đã mở mang vùng đất
Nghệ An, Hà Tĩnh ngày càng
--------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Tên
húy Trần Quốc Duy các sử sách, gia phả thời Lê không ghi, tên chỉ mới tồn tại
trong khoảng hơn 100 năm nay, tên Trần Pháp Độ là tên hiệu nhà Phật, khi vào
chùa Liên Hoa.
phồn thịnh, dòng họ có nhiều công hầu khanh tướng như: Thủy
Tổ Khảo Phú Quận Công Trần Thọ, Thủy Tổ Khảo Kim tử vinh lộc Trần Văn Ngạn, Thủy
Tổ Khảo Đông Quận công Trần Tuấn Kiệt, tiêu biểu là Thủy Tổ Khảo Liêm quận công
Trần Đăng Dinh và đến cháu đích tôn Liêm quận công là Diện Dũng Hầu Trần Đăng
Chất. Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn là con trai Thủy Tổ Khảo Đăng Chất, là Cụ Thủy
Tổ của chi họ chúng ta ở làng Thịnh Xá nay là xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn,
tỉnh Hà Tĩnh. Tính từ Cụ Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn đến nay, dòng họ chúng ta
đã đóng góp và tích lũy nhiều công đức cho xã hội, cho Tổ Tiên và ghi danh
những trang vàng chói lọi trong lịch sử Việt Nam.
Vì tài liệu thiếu nên về thông
tin hai đại chi ở Thanh Hóa không có nhiều mà chủ yếu ở Nghệ An và Hà Tĩnh.
Ngày nay, thông tin đã có song tiếp cận chưa được nhiều, tôi chỉ sơ lược qua mà
chủ yếu tìm hiểu về đại chi chúng ta. Ban liên lạc của dòng họ Trần Nguyên Hãn
đã có đầy đủ các chi từ mọi miền, các dòng họ đại diện cho ba dòng con của
Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn chúng ta đã về họp mặt cùng các dòng khác và dòng
đổi họ cùng xây dựng nên dòng họ của Đức Thủy Tổ Trần Nguyên Hãn rộng lớn cả
nước từ Bắc - Trung - Nam, trong giai đoạn lịch sử này dòng họ Trần chúng ta có
10 đời, từ Đức Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn đến Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Chất,
vùng sinh sống chính là ở tỉnh Nghệ An.
Dòng họ Trần của chúng ta đã
làm rạng danh đất nước, được nhân dân các vùng và con cháu các thế hệ lập lên
đền thờ như “Đền Trần Tả Tướng” ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc, “Đền Pháp Độ” Đan
Trung, xã Diễn Thắng, Diễn Châu, Nghệ An … cùng với hàng trăm nhà thờ của các chi,
các nhánh. Chúng ta nay và sau cần hướng về cội nguồn của Tổ Tiên xưa, cùng xây
đắp nối tiếp muôn đời .,.
BIÊN SOẠN
TRẦN ĐÌNH VIỆT
THÂN
THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA
ĐỨC
TẢ TƯỚNG QUỐC TRẦN NGUYÊN HÃN
Thủy Tổ Khảo Tả Tướng Quốc TRẦN NGUYÊN HÃN là cháu nội Chương Túc Quốc
Thượng Hầu Đại tư đồ Trần Nguyên Đán và là cháu đời thứ 6 của Chiêu Minh Đại
vương Tướng Quốc Thái Sư Trần Quang Khải, cháu đời thứ 7 Đức Vua Trần Thái
Tông, quê gốc ở làng Tức Mạc, lộ Thiên trường (huyện Mỹ Lộc), tỉnh Nam Định. Thủy Tổ Khảo Tả
Tướng Quốc sinh ở
làng Gốm, nay là làng Quan Tử Đa Kai, xã Sơn Đông, huyện
Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, là
người có học thức cao, giỏi binh pháp. Thủy Tổ Khảo theo Lê Thái Tổ
(Tức Lê Lợi) khởi nghĩa, có công lớn trong sự nghiệp giải phóng, đánh thắng
quân Minh, được phong Đại Tư Đồ, năm 1427, sau chiến thắng và hội thề
Đông Quan, được
phong là Thái úy, Tả Tướng Quốc,
Bình chương Quân
quốc trọng sự Khu mật Đại sứ.
Thủy Tổ Khảo Trần
Nguyên Hãn sinh ngày 01 tháng 02 năm Bính Dần (1386) vào đời vua Trần Thuận
Tông, là con của Thủy Tổ Khảo Trần Án (Tức Tổ Trần Nguyên Án) và Thủy Tổ Tỉ Lê
Thị Hoàn.
Vào
cuối thế kỷ XIV triều đại nhà Trần ngày một suy yếu, thế lực mưu phản Hồ Quý Ly
ngày một lộng hành, lũng đoạn triều chính, hãm hại các trung thần và những
người không thuộc vây cánh, từng bước dồn ép lấn át quyền lực và đẩy nhà Vua
vào thế hoàn toàn bị cô lập, bất lực, buộc lòng phải chấp nhận làm theo những ý
đồ phản loạn của chúng. Trước hoàn cảnh đất nước như vậy, Thủy Tổ Khảo Trần
Nguyên Đán đã can dán nhà vua nhưng không được nên lui về ở ẩn năm Ất Sửu
(1385) tại Côn Sơn (Huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) và để vợ chồng con trai là
Trần Án với Lê Thị Hoàn đang mang thai từ Chí Linh lên làng Quan Tử, trang Sơn
Đông, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (Nay là thôn Đa Cai xã Sơn Đông, huyện Lập
Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) để lánh nạn. Cùng đi còn có vị tướng già được ủy thác để
giúp đỡ, năm 1386 Thủy Tổ Tỷ sinh hạ Tổ Trần Nguyên Hãn tại đó, chẳng bao lâu
bọn Hồ Quý Ly đã truy tìm đến bắt và sát hại Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Án cùng
với người con trai lớn. Thủy Tổ Tỷ Lê Thị Hoàn một mình tần tảo rau cháo nuôi
dậy con nhỏ. Tổ Trần Nguyên Hãn lên 7 tuổi đã được mẹ cho đi học và thường được
nghe mẹ kể công lao to lớn của Tổ Tiên và mối thù nhà. Với tố chất thông minh lanh
lợi lại được vị tướng già tâm phúc kèm cặp giúp đỡ nên tiến bộ rất nhanh, năm
16 tuổi Tổ Trần Nguyên Hãn đã học hết tứ thư ngũ kinh và các sách binh thư,
Thủy Tổ thường rủ thanh niên trong làng mở lò vật để rèn luyện sức khỏe và
luyện tập võ nghệ chờ khi dùng đến.
Tháng hai năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly
(Là ông ngoại vua) cướp ngôi vua Trần Thiếu Đế vị vua đời thứ 12 của triều đại
nhà Trần, rồi tự xưng vua và lập nên triều đại nhà Hồ, đổi tên nước Đại Việt ra
thành nước Đại Ngu (Tức là Vui Vẻ), đồng thời tiếp tục truy bức, hãm hại các
tôn thất nhà Trần. Tôn thất nhà Trần là Tổ Trần Ngỗi lui vào vùng Nghệ An Tổ chức chống lại Hồ
Quý Ly. Tháng 10 năm 1406, quân nhà Minh kéo sang xâm lược nước ta, triều đình
nhà Hồ tan rã và cha con Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt đưa về Trung Quốc. Sau đó
nhà Trần tiếp tục chống lại nhà Minh và hai vị vua là Giản Định Đế (Tức Trần
Ngỗi) và Trùng Quang Đế (Tức Trần Quý Khoáng) cũng bị thất bại vào năm 1414. Từ
đó đất nước Đại Việt lại phải chịu sự thống trị của ngoại bang nhà Minh.
Năm Mậu Tuất(1418), Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa
ở Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa để chống sự thống trị của nhà Minh. Thủy Tổ Khảo Trần
Nguyên Hãn là một trong những người sục sôi ý chí cứu nước cứu dân, với nghĩa
nước, thù nhà, Tổ thức thời và dũng cảm đứng lên, biết đặt lợi ích quốc gia lên
trên lợi ích gia tộc, đặt lợi ích nhân dân lên trên lợi ích Hoàng gia, Tổ đã
cùng với Tổ Nguyễn Trãi (Anh họ) lặn lội vượt đường xa đã đến tụ nghĩa ở Lam
Sơn ngay trong những ngày chuẩn bị đầu tiên đầy gian khổ... Từ đó trở đi, Thủy
Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn được Vua Lê Lợi trọng dụng, đáp lại, Thủy Tổ Trần
Nguyên Hãn cũng hết lòng phò tá vị anh hùng dân tộc đất Lam Sơn. Sử cũ viết:
“Vua Lê Lợi cũng biết được tài thao lược của Tổ cho nên đã đãi ngộ rất hậu, cho
Tổ được dự bàn mưu kín, ban cho Tổ chức Tư Đồ. Tổ theo Vua đánh giặc, lập được
rất nhiều công lao”. Sau khi đánh thắng giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi, Thủy Tổ Khảo
Trần Nguyên Hãn được Lê Lợi gia phong Tả Tướng Quốc, bình chương quân quốc
trọng sự, khu mật đại sứ, được cấp 114 mẫu ruộng. Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn
là một trong những vị khai quốc công thần, là một võ tướng cao cấp có biệt tài
cầm quân, tên tuổi của Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn gắn liền với 4 sự kiện lớn
mà sách “Danh Tướng Việt Nam” tập 2 – Danh tướng Lam Sơn của Nguyễn Khắc Thuần
- Nhà xuất bản giáo dục - 1998, và cũng như tại cuộc Hội thảo về thân thế sự
nghiệp của Tổ Trần Nguyên Hãn tại huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc năm 1988, Giáo
sư sử học Văn Tạo viện sử học Việt Nam đã kết luận:“Ông Trần Nguyên Hãn một
người tài giỏi, nên được Vua Lê Lợi giao cho nhiệm vụ chỉ huy đánh những trận
quan trọng và đều đã giành được chiến thắng một cách xuất sắc”.
NHỮNG CHIẾN CÔNG LỚN CỦA TRẦN
NGUYÊN HÃN
I-) Sự kiện thứ nhất diễn ra vào năm Giáp Thìn (1424) tại vùng đất
tương ứng với vùng Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay, bấy giờ trận tấn công vào
Nghệ An của nghĩa quân Lam Sơn đang trong hồi quyết liệt. Thủy Tổ Khảo Trần
Nguyên Hãn được vua giao làm tướng tiên phong đánh trận mở đầu, diệt đồn Đa
Căng (Ngày nay là Bất Căng, xã Thọ Nguyên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) để
mở đường cho nghĩa quân. Ông đã tiến hành một trận tập kích bất ngờ, giải quyết
nhanh gọn chiến trường tạo điều kiện cho nghĩa quân tiến quân thuận lợi, tháng
7 năm Ất Tỵ, cùng một số tướng khác đem hơn 1000 quân cùng một thớt voi, bí mật
vòng xuống đánh vào Bố Chính tiêu diệt được đạo quân của tướng nhà Minh là Nhậm
Năng, giải phóng hai thành Tân Bình và Thuận Hoá (Các tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên ngày nay). Quân dân hai xứ ấy đều quy thuận và Tổ đã thu nạp
mấy vạn quân tinh nhuệ bổ xung cho lực lượng của quân khởi nghĩa.
II-) Sự kiện thứ hai diễn ra vào
cuối năm 1426 (Bính Ngọ), chiến dịch vây thành Đông Quan, với 100 chuyến thuyền
xuất phát theo dòng sông Hát (Quảng Oai - Sơn Tây), đêm 23-10, Tổ tiến quân về
Đông Bộ Đầu, đánh vào phía bắc thành Đông Quan, cắt đứt cầu nối giữa Hà Nội và
Gia Lâm, tiêu diệt đạo quân giữ thành tướng nhà Minh là Vương Thông.
III-) Sự kiện thứ ba diễn ra vào năm
1427 (Đinh Mùi), Vua Lê Lợi chủ trương dốc phần lớn lực lượng tinh nhuệ nhất
vào trận quyết chiến chiến lược đánh viện binh của quân nhà Minh, một trong
những phần việc chuẩn bị quan trọng cho trận đánh lịch sử này là phải hạ thành
Xương Giang (Một điểm nằm dọc trên đường quốc lộ từ Hà Nội đi Lạng Sơn ngày
nay). Giặc Minh có 10 ngàn quân, do 5 tướng chỉ huy việc canh giữ, chúng lại
gom nhiều dân quanh vùng về ở bọc làm bia che đỡ cho chúng, Thủy Tổ Khảo Trần
Nguyên Hãn được cử cùng với Lê Sát chỉ huy trận đánh này. Sử cũ chép lại rằng
“Ông đến nơi, sai quân đào đường hầm xuyên qua thành và dùng câu liêm, cùng các
thứ giáo mác, nỏ cứng, hỏa pháo ..., bốn
mặt cùng đánh vào, không đầy một canh giờ (Tương ứng với hai tiếng đồng hồ ngày
nay) đã hạ được thành Xương Giang, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân giặc giữ
thành, chém đầu tướng Thôi Tụ, bắt sống tướng Hoàng Phúc, các tướng lĩnh khác
phải nhẩy xuống thành tự tử như tướng Lý Nhậm và tướng Kim Dận”(Theo Đại Việt
thông sử chư thần truyện). Sau khi quân ta hạ thành Xương Giang, Thủy Tổ Khảo Trần
Nguyên Hãn được lệnh dẫn đại quân đi đánh chặn quân tiếp lương của giặc… .
IV-) Sự kiện thứ tư cũng diễn ra cuối năm 1427 sau trận đại bại thảm
hại của lực lượng viện binh ở Xương Giang, Vương Thông buộc phải quỳ gối đầu
hàng. Tại hội thề Đông Quan, Tổ Trần Nguyên Hãn là một trong những đại diện cao
cấp của Lam Sơn dự lễ ký hoà ước, tướng Vương Thông xin rút toàn bộ quân đội
nhà Minh ra khỏi đất nước ta. Với những chiến công của Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên
Hãn, trong cuốn “Đại Việt Thông Sử”(*) Lê Quý Đôn đã viết: Trong buổi
lễ hội thề của quân Minh, ông Trần Nguyên Hãn đứng thứ hai sau Vua Lê Lợi,“Nhất
quốc đầu mục, Hãn danh đệ nhị thứ, kỳ kiến trọng ư tôn giã”.
Tháng
ba năm Mậu Thân (1428), sau chiến thắng quân Minh xâm lược, giải phóng hoàn toàn đất nước, triều đình nhà Lê
định công ban thưởng quần thần, Tổ Trần Nguyên Hãn đã được Vua Lê Lợi tấn phong
“Tả Tướng Quốc” và được đổi sang họ nhà Vua, gọi là Lê Hân. Trong cuộc hội thảo
ở Lập Thạch Tỉnh Vĩnh Phúc năm 1988 về thân thế và sự nghiệp của Tổ Trần Nguyên
Hãn, giáo sư Văn Tạo đã nói: “Trần Nguyên Hãn là một vĩ nhân, một vị anh hùng
dân tộc, xứng đáng được nhân dân ta phụng thờ”.
Cũng trong năm Thuận Thiên thứ nhất 1428, do
cảm nhận có sự xuất hiện dấu hiệu lòng đố kỵ, ghen tuông trong triều đình, nên
Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn đã xin về hưu, được Vua Lê Lợi chấp thuận cho trở
về Sơn Đông, huyện Lập Thạch nơi sinh ra. Tại nơi đây, Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên
Hãn lập phủ đệ, đóng thuyền để hưởng thú vui cùng quê hương thôn dã, một năm sau
đó, vì sự ganh ghét hiềm khích của bọn ô quan, đã vu cáo Tổ Trần Nguyên Hãn có
ý làm phản triều đình. Vua Lê Lợi nghe theo lời ton hót dèm pha ấy, đã hạ lệnh
triệu hồi Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn về kinh để khảo vấn... Trên đường về
Thăng Long, thuyền vừa đến bến Đông Hồ trên dòng sông Lô, Thủy Tổ Khảo Trần
Nguyên Hãn ngửa mặt lên kêu trời rồi nhảy xuống sông trẫm mình!
Thủy
Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn mất vào ngày 26 tháng 02 năm Kỷ Dậu (Tức 30-3-1429),
cái chết của Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn theo “Lê Triều Thống Sử” của nhà sử
học Lê Quý Đôn (Thế kỷ 18) viết:“Tôi (Trần Nguyên Hãn), với Vua cùng mưu cứu
nước, cứu dân, nay sự nghiệp lớn đã
---------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Còn có tên là “Lê Triều
Thông Sử”
thành, nhà Vua nghe lời dèm pha để hại tôi, trời cao có biết không, rồi Ông tự trầm
mình!” Sử của làng Sơn Đông có ghi lại rằng: Vua sai sai 42 lực sĩ xá nhân lính
của triều đình về bắt ông Trần Nguyên Hãn. Gia nhân và lính hầu của ông Hãn
đông và nhiều người có võ nghệ, họ rất tức tối và khuyên Ông chống lại lệnh
Vua, nhưng Ông nói:“Ta với Vua cùng mưu cứu nước cứu dân, nay việc lớn đã
thành, Vua lại muốn giết ta, Hoàng Thiên có biết nên soi xét cho. Ta không thể
sống được với nhà vua, nhưng ta ra mặt chống lại, nhà Vua sẽ viện cớ đó tàn sát
giết hại hết con cháu dòng dõi họ Trần, nay chỉ để mình ta và gia quyến chịu
chết là hơn.”
Năm
Diên Ninh thứ nhất 1454 (Giáp Tuất), Vua Lê Nhân Tông trong kỳ Đại Xá Thiên Hạ
đã minh oan cho Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn, đời vua sau này đã truy phong
Thủy Tổ Khảo là “Phúc Thần”, nhân dân địa phương truy tặng Thủy Tổ Khảo là
“Khai Quốc Nguyên Huân”. Nhà Vua cũng đã trả tự do và tài sản cho vợ con Tổ.
Con trai của Người là Tổ Trần Pháp Độ (Có thể là tên pháp danh của Cụ Tổ, có
tài liệu tên Cụ Tổ là Trần Quốc Duy) thi đậu và được mời ra làm quan. Sau khi
về nghỉ Tổ đã di cư gia đình chia ra ở ba nơi vào vùng đất Thanh Hóa hai nơi và
Nghệ An sau lan sang Hà Tĩnh phát triển dần dần tạo nên dòng họ Trần lớn mạnh ở
ba tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, ngày nay đã di cư ra khắp cả nước.
Nhân
dân làng Gốm và Văn Lãng đã lập Đền thờ “Trần
Tả Tướng” thờ Thủy Tổ Khảo Tả Tướng
quốc Trần Nguyên Hãn theo Lê Lợi diệt giặc Minh giải phóng đất nước đầu thế kỷ
XV, đời nhà Mạc (1527-1593) gia phong cho Tổ là “Tả Tướng Quốc Trung Liệt Đại
Vương”. Đền Thờ Tổ Trần Nguyên Hãn hiện nay ở xã Sơn Đông huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc,
trên nền nhà cũ, được xây dựng trên một thế đất bằng phẳng, rộng, cao, tương
truyền đây chính là nơi đặt Phủ đệ cũ của Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn, nơi
sinh ra Tổ và là doanh sở của Tổ, khi Tổ về hưu. Sử của địa phương (Xã Sơn
Đông) ghi rằng:“Thập đạo kinh luân mao ức lý, nhân cựu trạch tử miếu”, có nghĩa
là sau mười năm đi chinh chiến, về ở lại ngôi nhà cũ. Đền thờ Đức Thủy Tổ Khảo
Trần Nguyên Hãn được nhân dân làng Gốm và Văn Lãng xây dựng năm 1454, được xây
dựng lại lớn hơn vào năm 1490 thời triều đại Vua Lê Thánh Tông và đã trang tu,
sửa chữa lại nhiều lần. Đền“Trần
Tả Tướng”, còn có tên là Đền Quốc Công,
đền được cấu trúc theo kiểu chữ “Đinh”, sơn đỏ, có hoa văn Long – Trảo -
Nguyệt, xung quanh có tường bao bọc tạo thành khuôn viên chữ “Điền” vuông vắn.
Các công trình xây dựng gồm 3 phần: Cổng đền, nhà tiền tế, hậu cung. Từ khi xây
dựng Đền đến nay, Đền đã được nhà nước, nhân dân tu sửa nhiều lần và xây dựng
thêm, chủ yếu vào đời Nguyễn, nghệ thuật kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn,
trong đền có hoành phi, bia đá, thơ và đôi câu đối của Trần Danh Xí:
嵐 山 將 業 存 靈 地
瀘 水 神 心 對
義 天
“Lam Sơn tướng nghiệp tồn linh địa,
Lô thủy
thần tâm đối nghĩa thiên”.
(Sự nghiệp làm tướng đất Lam Sơn còn mãi
với đất thiêng này,
Lòng trung của người bầy tôi trên dòng sông Lô là có Trời biết).
Lòng trung của người bầy tôi trên dòng sông Lô là có Trời biết).
Trong
đền, bài vị thờ: “Đức Vua Tả Tướng Quốc Phủ Quân Tôn Thần” và hai bản đại tự:
Tối Linh Đại Vương và Khai Quốc Nguyên Huân, cùng với lá cờ Trần từ thời Lê, có
13 đạo sắc phong của các triều vua từ Hậu Lê đến đời vua Bảo Đại cuối triều
Nguyễn, thanh kiếm gia truyền bị mất khoảng vào năm 1880-1883, chuông to mất vào
năm 1947. Ngoài ra còn có các di tích: Ruộng hưu quan theo địa bạ cũ của làng
Xuân Lôi còn 39 mẫu, 9 thước, các làng Gốm và Văn Lãng cộng lại thành 100 mẫu,
đá mài gươm, Rừng Thần, ao Tó, Cồng Khẩu, Chùa Am, làng Quan Tử - Đa Kai …, vẫn
còn đó.
Ngày nay, ngày
húy nhật (Tức vào ngày sinh nhật) của Thủy Tổ Khảo Tả Tướng Quốc Trần Nguyên
Hãn đã trở thành ngày Quốc lễ, ngày 01-02 âm lịch hàng năm tại đền thờ
Trần Tả Tướng. Vào ngày này nghi lễ dâng hương, tế lễ của nhân dân cả nước về
thăm tưởng nhớ Người, con cháu của Người làm lễ hội lớn trong vùng. Chúng ta
hãnh diện và tự hào là con cháu hậu duệ của Người, chúng ta cùng nhau phấn đấu
vươn lên xây dựng dòng họ Trần chúng ta ngày càng hùng cường, vẻ vang khắp mọi
nơi .,.
BIÊN SOẠN
KS
TRẦN ĐÌNH VIỆT
Trưởng chi 1 - Đời thứ 2/10/30
ĐỜI THỨ – 11
THỦY
TỔ KHẢO
TRẦN NGUYÊN HÃN
ĐỜI THỨ - 12
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN PHÁP
ĐỘ
ĐỜI THỨ -
13
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN
THIỆN TÍNH
ĐỜI
THỨ - 14
THỦY
TỔ KHẢO
TRẦN CHÂN THIÊN
ĐỜI THỨ - 15
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN THỌ
ĐỜI THỨ - 16
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN VĂN NGẠN
ĐỜI THỨ - 17
THỦY
TỔ KHẢO
TRẦN TUẤN KIỆT
ĐỜI THỨ - 18
THỦY TỔ
KHẢO
TRẦN
ĐĂNG DINH
ĐỜI THỨ - 19
THỦY
TỔ KHẢO
TRẦN
ĐĂNG DŨNG
ĐỜI THỨ - 20
THỦY
TỔ KHẢO
TRẦN ĐĂNG CHẤT
LƯỢC BẢN TIỀN BIÊN
GIA PHẢ THỦY TỔ CỦA HỌ TRẦN
Ở LÀNG THỊNH XÁ
(Thịnh
Xá ngày nay là xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh)
ĐỜI
|
CÁC
BẬC THỦY TỔ KHẢO
|
CÁC
BẬC THỦY TỔ TỶ
|
CÁC CON CỦA
THỦY
TỔ
|
GHI CHÚ |
|
11
|
TRẦN NGUYÊN HÃN
01/02/1386 -26/10/1429
Thái úy - Tả tướng quốc
|
1- Bà cả...
2- Bà hai LÊ THỊ TUYỂN
3- Bà ba còn gọi là CHÚA LÔI
|
12-2-1 Trần Pháp Độ
12-2-2 Trần Doãn
Hữu
12-2-3 Trần Trung
Khoản
12-2-4 Trần Đăng
Huy
12-2-5
Người con gái
|
- Ở Quan Tử
- Đổi sang họ Quách
- Đổi sang họ Đào
|
|
12
|
TRẦN
PHÁP
ĐỘ
Sinh năm 1424,
mất 15/7 Kỷ Mão (1519)
(Tức Trần Quốc Duy
|
LÊ
TỪ QUANG
|
13-1-1. Trần Công Sủng
13-1-2. Trần Đạo Tín
13-1-3. Trần Thiện Tính - Hiệu Chân Thường
13-1-4+5 Hai Người con gái.
|
-
Hậu duệ ở Tỉnh Gia, Thanh Hóa
- Hậu duệ
ở Nga Sơn, Thanh Hóa
- Phủ thờ ở thôn Đan Trung xã
Diễn Thắng ngày 27/5/1977 được cấp bằng di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
|
|
13
|
TRẦN THIỆN TÍNH
- Hiệu Chân Thường
Húy Khương
Hợp kỵ: 27/3
|
LÊ
THỊ
TAM NƯƠNG
Hiệu TỪ
PHÚC
|
14-3-1 Trần Chân Tịch Tự
Phúc Quảng, hiệu Huyền Nghiêm.
14-3-2 Trần Chân Tính Hiệu
Huyền Thông.
14-3-3 Trần Chân Thiên, hiệu Huyền Linh, húy Sinh
Thiên.
14-3-4 Thế Thủy Tổ cô Trần Quế Hoa Nương.
|
Mộ song táng ở xứ Cồn
Chu, xã Giai Lạc, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Nhà thờ chi trưởng
ở thôn Đồng Tháp, Diễn Hồng, Diễn Châu, Nghệ An. Tổ Trần Thiện
Tính là Tổ đầu họ Trần ở Yên Thành.
|
|
14
|
TRẦN
CHÂN THIÊN
- Hiệu Huyền Linh, húy Sinh Thiên, phần
mộ ở Bàu Ác.
Mất 14/8
|
THÁI
THỊ
TỪ NƯƠNG Hiệu:
TỪ THIỆN
Mất 4/5
|
15-3-1 Trần Văn Lộc Hậu duệ ở Đức Thọ.
15-3-2 Trần Văn Huỳnh, Hậu duệ ở Thanh
Chương.
15-3-3 Trần Thọ -Thượng Tướng
Quân.
|
||
15
|
TRẦN
THỌ
Phú quận công
1544-1613
|
TRẦN
THỊ
ĐÀI
Hiệu:
TỪ
DUYÊN
Mất 23/3
|
16-3-1 Trần Văn Ngạn - Phụ quốc Thượng Tướng Quân, Kiếm Lễ hầu.
|
||
16
|
TRẦN
VĂN
NGẠN
Phụ quốc Thượng Tướng Quân - Húy:
Long, 1560 – 1635. Phần mộ song táng ở xứ Cồn Trảo
|
PHAN
THỊ
NIÊN
Hiệu:
TỪ THUẬN
Mất 3/7
|
17-1-1 Trần Tuấn
Kiệt
17-1-2 Trần Thọ Nhâm
17-1-3 Trần Thọ Nhạc.
17-1-4 Trần Tất Hiệu. (Tất Minh- Hậu duệ ở
Tây Hiếu, Nghĩa Đàn).
|
- Thế Thủy Tổ Khảo Trần Tuấn Kiệt là Thái Bảo Đông Quận Công.
|
|
17
|
TRẦN
TUẤN
KIỆT
Thái Bảo
Đông quận công
Mất 16/8.
Phủ thờ ở Giáp Cồn, phần mộ song táng
ở xứ Hoa Sen, làng Thuần Vỵ.
|
- NGUYỄN THỊ
ĐÀO
Hiệu: TỪ HÀNH
- PHAN THỊ THIỆN
Hiệu:
TỪ
MINH.
Mất 15/8.
|
18-1-1 Trần Đăng
Nhượng - Hậu duệ ở Phúc Thành.
18-1-2 Trần Tế
Thế - Hậu duệ ở Phúc Thành
18-1-3 Trần
Phương -Hậu duệ ở Hậu Thành.
18-1-4
Trần Đăng Dinh - Liêm Quận Công.
|
||
18
|
TRẦN ĐĂNG DINH
- Liêm quận công, húy
là Mãn - Trung đẳng tôn thần;
Sinh năm 1620 mất năm 1691;
Phần mộ ở
xứ Hoa Sen
|
-Đích
Tổ Tỷ:
NGUYỄN THỊ
QUÝ
húy
là Hành,
hiệu: TỪ PHÚC
1619-1659.
- Thứ tổ tỷ: TRẦN THỊ DÂN
Hiệu: TỪ
THUẬN
- Và 7 tổ tỉ
|
Ba con
trai của Tổ đích Tỷ là:
19-4-1 Trần Đăng Đệ(Có năm con gái)
19-4-2 Trần Đăng
Dũng
19-4-3Trần Đăng Sỹ
Các
người con của Tổ thứ Tỉ là :
19-4-4 Trần Đăng Nhuận
19-4-5 Trần Đăng Tạo
19-4-6 Trần Đăng Triều
19-4-7 Trần Đăng Tương
19-4-8 Trần Đăng Nhiệm
19-4-9 Trần Đăng Phái ……
Tất cả 25
người con.
|
- Thế Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Dinh có 9 bà vợ sinh được 16 người
con trai đều là Hoàng tín đại phu, tước hầu và 9 người con gái.
|
|
19
|
TRẦN ĐĂNG DŨNG
Diễn Trạch Tử
(1642-1673).
Mất 12/8 lúc mới 32
tuổi; Mộ song táng ở xứ Cửa
Nương làng Vũ Kỳ.
|
LÊ
THỊ
ĐỊNH
Mất ngày 01/10
|
20-2-1 Trần Đăng Chất
20-2-2 Trần Đăng Dụng
|
- Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Dũng, có từ đường thờ ở làng Vũ Kỳ
|
|
20
|
TRẦN ĐĂNG CHẤT
- Diễn dũng hầu, mất 05/5. Mộ hai cụ Thủy Tổ táng song hồn ở xứ
nhà thờ giáp Phúc Am, thuộc cửa nhà thờ ở làng Vũ Kỳ
|
- Đích tỷ:
LÊ
THỊ LAN
Hiệu : TỪ NHÂN,
mất 12/6
- Thứ tỷ: TRẦN TRẮC THẤT
Người quê Thanh Hóa,
|
21-1-1 Trần Đăng Thuần
21-1-2 Trần Đăng Trí
21-1-3 Trần Đăng Diên
21-1-4 Trần Đăng Tùng
21-1-5 Trần Đăng Quý
21-1-6 Trần Đăng Đoan
21-1-7 Trần Đăng Nhàn
21-1-8 Trần Thị Hiền
21-1-9 Trần Thị Liên
21-1-10 Trần Thị Huệ
21-1-11 Trần Thị Phái
|
- Tổ Trần Đăng Đoan, Hậu duệ ở xã Nam Trạch nay là xã Hương Bình,
huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
|
PHẦN THỨ III
GIA
PHẢ DÒNG HỌ
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN ĐĂNG NHÀN
Ở
LÀNG THỊNH XÁ
NAY LÀ XÃ SƠN THỊNH - HUYỆN HƯƠNG SƠN
TỈNH HÀ TĨNH
LỜI GIỚI THIỆU
Dòng họ Trần chúng ta ở xã Sơn Thịnh,
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh đã có lịch sử khoảng trên 300 năm phát triển, là
một dòng họ lớn tại xã, khi tôi biên soạn cuốn gia phả này trong gia tộc đã có
nhiều cuốn gia phả của các chi họ để tham khảo, phần này khi tôi biên soạn là
có được đầy đủ tài liệu nhất, vì vậy việc biên soạn này cần có cách xắp xếp cho
khoa học, đúng.
Tôi biên soạn phần III cuốn “Gia
phả đại tộc Trần” này bắt đầu từ năm 1996 khi tôi cùng Hiền Khảo với Đệ
huynh về quê xây 13 ngôi mộ của chi họ ta và tôi sao được cuốn “Gia
phổ họ Trần”. Sau này tôi tìm hiểu ghi chép, tham khảo từ các cuốn gia
phả trong họ đặc biệt vào năm 2011 tôi nhận bản đánh máy cuốn “Gia
phả, gia tộc họ Trần” của cụ Trần Xuân Kiều (Cụ thuộc đời 21-1-1; đời 25-1-2; đời 26-2-3; đời 27-3-1; đời 28-1-3;
là đời 29-3-1) để tôi ghép 6 phần cụ đánh máy. Sau khi in bản nháp trong
năm 2012, tôi đã cùng với cụ Trần Xuân Kiều tham gia vào hiệu đính, sắp xếp sau
khi trong họ các cụ đã hiệu đính và tôi mang đi in, đây là quyển gia phả của cả
gia tộc họ Trần ta ở quê nhà. Vì vậy khi biên soạn cuốn gia phả này tôi có được
tham khảo nhiều tài liệu, các cuốn gia phả của các chi họp Trần chúng ta ở xã
Sơn Thịnh. Mỗi cuốn gia phả đều có cách trình bầy khác nhau, tôi soạn theo cách
bố cục của cụ Trần Đình Đắc nhưng tôi mở rộng trong từng đời, từng chi, đánh số
thứ tự chi tiết rõ ràng. Tôi chọn cách xưng hô theo thứ bậc là của tôi nên tôi
viết theo thứ bậc của tôi do đó khác với tất cả các cuốn gia phả, cách xưng hô
cụ thể như sau:
- Với dòng trực hệ sinh mình ra thì phải có chữ “Khảo”, ví dụ như Tổ Khảo tức ông nội của tôi đã mất, Hiền Khảo là cha của tôi đã mất, nếu các cụ chưa mất thì viết đúng như thường gọi là Ông Nội, Cha, …, cha của Tổ Khảo viết là Tằng Tổ Khảo, cứ như vậy đến Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Cao Tằng Tổ Khảo, ….
- Với dòng trực hệ sinh mình ra thì phải có chữ “Khảo”, ví dụ như Tổ Khảo tức ông nội của tôi đã mất, Hiền Khảo là cha của tôi đã mất, nếu các cụ chưa mất thì viết đúng như thường gọi là Ông Nội, Cha, …, cha của Tổ Khảo viết là Tằng Tổ Khảo, cứ như vậy đến Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Cao Tằng Tổ Khảo, ….
- Ba
cụ Tổ đầu tiên của dòng họ ta là cụ Nhất Đại Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn; Nhị
Đại Thủy Tổ Khảo Trần Trọng Tưởng; Tam Đại Thủy Tổ Khảo Trần Bá Huân, Cao Cao
Cao Tằng Tổ Khảo Trần Bá Phấn, đến đời con của tôi thì gọi cụ Tổ Khảo đời thứ 4
thì cháu phải khấn là cụ Tứ Đại Thủy Tổ Khảo Trần Bá Phấn. Cách gọi, viết mỗi
người cứ như vậy kéo dài tới tất cả các đời cháu, chắt, chít, …., sau này mọi
người cần nhớ cho đúng.
- Với
các chi khác không cùng chi với ta thì cũng viết như trên nhưng không có chữ
Khảo, ví dụ như: Tổ, Tằng Tổ, Cao Tằng Tổ,… nếu là anh em ruột của cụ tổ nhà
mình thì thêm như Bá Khảo, Thúc Khảo, Bá Tỉ, Thúc Tỉ … . Khi cúng khấn thì mọi
người thêm chữ Hiển đằng trước, như Hiển Tổ Khảo Trần Khắc Tri, Hiển Tổ Tỉ
Nguyễn Thị Chắt, Hiển Tổ Bá Khảo Trần Khắc Trạch … cần đọc và hiểu đúng như
trong “Phụ lục, mục I trang 243” của cuốn này.
- Khi
mọi người đọc gia phả cần chú ý đọc ý nghĩa các dấu ghi chú (*) hoặc chữ GHI CHÚ cần
đọc để hiểu dõ hơn.
- Khi
lập gia phả cần ghi được ít nhất là 5 đời anh em của từng chi, nếu có thể hơn
càng tốt nhưng cần tuân theo cách ghi số thứ tự như tôi đã ghi, ví dụ số thứ tự
là: 30-3-1 là số của tôi, vì gia phả là của tôi, tôi là đời thứ 30, cha tôi là
chi 3, tôi là con trai lớn nhất trong nhà số 1(Con trưởng).
- Với
những anh em họ thì cách đánh số thứ tự theo dòng trực hệ cho đến khi cùng chung cụ tổ
với thứ tự đời trong gia phả, ví dụ: Số thứ tự 30-1-2) Ông Trần Đình Thủy là đọc trong gia
phả, khi viết ra giấy thì phải viết đủ là: “Ông Trần Đình Thủy (thuộc đời
27-1-5; đời 28-5-3; đời 29-3-1; là đời 30-1-2)” như vậy ông Thủy với tôi cùng
là cháu nội của cụ tổ đời 26-1-1 Cao Tằng Tổ Khảo Trần Đức Mỹ, tức cùng là thế
hệ thứ 5 khi cụ mất thì cùng vấn khăn đỏ.
- Nếu
ai muốn tìm mình trong gia phả thì cần tìm dần từ đời thứ 3 có ba đại chi là đại
chi 1, đại chi 2, đại chi 3 và có 9 chi từ chi 1 đến chi 9 như 9 bài vị ở trong
nhà thờ Đại Tôn họ Trần ta ghi là “Đại chi 1, Chi 1 Đình Biểu…đến Đại chi 3,
Chi 9 Đình Phu”, muốn tìm nhanh thì cần nhớ được cụ tổ của mình ở đời thứ mấy,
tên cụ là gì, sau khi tra được trong cuốn“Gia phả đại tộc Trần” ta kết hợp
với cuốn“Gia phả, gia tộc họ Trần” sẽ tìm thấy phần chi họ của mình.
Như
vậy , phần 3 của gia phả này là được biên soạn chi tiết, chính xác nhất, nhờ tôi có được nhiều tài liệu từ các cuốn
gia phả của các cụ xưa để lại. Tôi mong rằng khi mọi người đọc sẽ tiếp tục bổ
xung, đính chính thêm cho đầy đủ hơn, và thông báo cho mọi người, cho tôi theo
Email đã ghi trong những dòng cuối của “Lời ghi nhớ” trang 14 hay trang 192 của
cuốn này.
Nhà thờ Đại Tôn họ Trần chúng ta ở tại
xóm Thịnh Nam, tất cả các Cụ cách chúng ta sáu đời trở về trước đều được đưa
vào nhà thờ để thờ phụng, nhà thờ được khởi công xây dựng lại vào năm 1875 đến
nay đã nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhất là vào năm 1997 mới được như ngày nay.
Về công đức, đóng góp như trên bia đá đã khắc, năm nay tháng 11-2017 lại sửa chữa, tôi đã đi
vận động trong chi 3 của Hiền Khảo được như sau: Cô Trần Thị Hạnh 2.000.000đ,
bác Trần Thị Kim Nga 200.000đ, chú Trần Đình Thắng mất thím Lê Thị Oanh
200.000đ và tôi 200.000đ tổng cộng được 2.600.000đ, và tôi cùng BLL họ Trần tại
Hà Nội vận động với một số chi họ khác tổng thu được 15.500.000đ, tôi và bác
Trần Thanh Tịnh trưởng ban liên lạc họ Trần ta tại Hà Nội đã gửi về quê cho ông
Trần Văn Vỹ là Trưởng hội đồng gia tộc họ Trần ta ở quê.
Tất cả chúng ta, là con cháu họ Trần cùng
đoàn kết phấn đấu vươn lên xây dưng gia tộc chúng ta ngày càng vững mạnh, vẻ
vang, cùng nhau hướng về quê hương nơi cha mẹ chúng ta sinh ra, nơi Tổ Tiên
chúng ta đã từng sinh sống. Chúng ta cùng nhau giữ gìn bảo tồn nhà thờ Đại Tôn
họ Trần được trường tồn theo thời gian, theo non nước.
Thịnh
Quang, ngày 16 tháng 12 năm 2017
BIÊN SOẠN
TRẦN ĐÌNH VIỆT
HỌ TRẦN XÃ SƠN THỊNH
1- HỌ TRẦN VÀ NHÀ THỜ HỌ Ở LÀNG THỊNH
XÁ
Họ ta xây dựng cơ nghiệp
ở làng Thịnh Xá, xưa lúc chưa có nhà thờ, chỉ phụng sự (Tức thờ cúng) chung ở
nhà trưởng tộc, có biệt riêng 2 gian là nhà thờ của vị Lê triều Hiệu sinh là
Trần Trọng Đăng mà thôi. Đến năm Giáp Tuất là năm Tự Đức thứ 27 ngày 24-02-1874
nhân loạn Triều binh quân Pháp tiến lên đốt phá, lúc ấy nhà trưởng tộc và nhà
thờ đều bị đốt cả. Sau đến năm 1875 ngày 01-6 năm Ất Hợi, đời vua Tự Đức thứ 28
mới khởi công làm lại nhà thờ, tiền cúng lúc đó được 520 quan. Từ đó, họ có nhà
thờ để phụng sự hương hỏa, còn có 2 vị hiệu sinh là Trần Hữu Nghĩa và Trần Văn
Nghệ nguyên trước phổ hệ không có, sau nhận trong văn chỉ của làng ta mới rước
về phụng sự.
Năm 1876 ngày 15-6 Bính
Tý (*) niên hiệu Tự Đức thứ 29, có làm một lễ chay to, hai ngày đêm, đến
khoa Mậu Tý (1888) là năm hiệu Đồng Khánh thứ 3, trong họ có Tằng Tổ Trần Đình Bạt thi đậu Tú Tài
(Tổ là con đầu của Tổ Trần Văn Nhạ,
cháu của Tổ Trần Đình Cử và chắt Tổ Trần Bá Phấn).
Sang năm Canh Tý (1900)
là năm thứ 12 đời Thành Thái, họ ta làm thêm hai gian ở Á đường để thờ ba vị
hiệu sinh Trần Trọng Đăng, Trần Hữu Nghĩa, Trần Văn Nghệ.
Nhà thờ lớn họ Trần của
chúng ta đã được con cháu trong họ vừa qua sửa chữa, tu bổ, tôn tạo rất đẹp và
uy nghiêm, chắc chắn dòng họ ta lại vượng phát muôn đời nối tiếp. Nhà thờ lớn
họ Trần hiện nay có Linh Vị thờ Cụ Nhất Đại Thuỷ Tổ Khảo, Cụ Nhị Đại Thuỷ Tổ
Khảo, ba Linh Vị thờ ba Cụ Tam Đại Thuỷ Tổ Khảo là ba đại chi, có 9 Linh Vị thờ
chín chi, chín cụ Tứ Đại đời thứ 24, chín Linh Vị được ghi là: Đại Chi 1, Chi 1
Đình Biểu; Đại Chi 1, Chi 2 Đình Vân; Đại Chi 1, Chi 3 Khắc Xương; Đại Chi 1,
Chi 4 Khánh Duệ; Đại Chi 1, Chi 5 Đình Cổ; Đại Chi 1, Chi 6 Bá Phấn; Đại Chi 2,
Chi 7 Trọng Chương; Đại Chi 3, Chi 8 Đình Bảo; Đại Chi 3, Chi 9 Đình Phu. Trong
nhà thờ lớn có câu đối: “Sàng thùy vi khả kế dạ - Tràng viễn chung tất lại
chi”, nghĩa là: “Tổ Tiên gây dựng, làm cho con cháu noi theo – Con cháu dài lâu,
nhờ có Tổ Tiên mở trước”, ý muốn nói con cháu chúng ta phải ghi nhớ mãi mãi.
Sách có chỉ rằng“Công hầu
chi gia, tất phục kỳ thỉ”- Nay và sau này chúng ta tiếp nối theo mà mở mang ra
cho khỏi phụ công đức của Tiền Nhân – Tổ Tiên chúng ta đã gây dựng bao đời nay.
---------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Theo gia phả của cụ Trần Văn Uyên thì là
năm Bính Tuất (1886), còn lại các gia phả khác đều là năm Bính Tý (1876).
2- ĐI TÌM GỐC TỔ
Nguyên trước truyền lại, Thỉ Tổ họ Trần Trọng Nhàn ta từ tỉnh Thanh Hóa, huyện Quảng Xương, Tổng Thủ Hộ, có quán hàng cơm nhân loạn chạy đến ở đất Thịnh Xá. Họ ta không có thế phổ để lại, Chỉ với thông tin này, cụ Tổ đầu tiên đi tìm gốc Tổ là Cụ Cao Tằng Tổ Trần Văn Nhạ - Chi 2, đời thứ 6/26 và một cụ người họ nữa đi ra tỉnh Thanh Hóa đến quán hàng cơm hỏi về gốc tích Tổ Tiên, nhưng không có bằng cứ thông tin gì. Qua đến đời vua Thành Thái, cháu đời thứ 7/27 con trai của cụ Nhạ là cụ Tú tài Tằng Tổ Trần Đình Bạt cùng các Cụ Tằng Tổ Khảo Thi sĩ Trần Xuân Cẩm; Cụ Tằng Tổ Trần Đình Hòe và cụ Tổ Trần Liêm lại đi ra tỉnh Thanh Hóa, huyện Quảng Xương, Tổng Thủ Hộ, xã Bằng Trình, làng Nhân Lý hỏi thăm Tổ tích, nhưng cũng mơ hồ không hỏi rõ được gì. Đến năm Tân Dậu (1921) đời vua Thành Thái, họ ta đã đi đoán tiền đồng phẩm, đoán rằng nguyên Tổ Tiên ta ở Nghệ An, huyện Yên Thành, xã Giai Lạc, làng Diệu Ốc. Đến đời cụ Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Chất, phụng mệnh ở tỉnh Thanh Hóa, lấy bà thiếp sinh được 2 con trai tên là Trần Đăng Nhàn và Trần Đăng Đoan. Thời ấy loạn lạc, cụ Tổ Trần Đăng Nhàn chạy loạn vào huyện Hương Sơn, làng Thịnh Xá, trong lời đoán đó, kể rõ thể thứ, tên tuổi và sự nghiệp rõ ràng, hiện có lời để lại, từ đó về sau họ ta cũng chưa kịp tổ chức đi nhận Tổ Tiên.
Nguyên trước truyền lại, Thỉ Tổ họ Trần Trọng Nhàn ta từ tỉnh Thanh Hóa, huyện Quảng Xương, Tổng Thủ Hộ, có quán hàng cơm nhân loạn chạy đến ở đất Thịnh Xá. Họ ta không có thế phổ để lại, Chỉ với thông tin này, cụ Tổ đầu tiên đi tìm gốc Tổ là Cụ Cao Tằng Tổ Trần Văn Nhạ - Chi 2, đời thứ 6/26 và một cụ người họ nữa đi ra tỉnh Thanh Hóa đến quán hàng cơm hỏi về gốc tích Tổ Tiên, nhưng không có bằng cứ thông tin gì. Qua đến đời vua Thành Thái, cháu đời thứ 7/27 con trai của cụ Nhạ là cụ Tú tài Tằng Tổ Trần Đình Bạt cùng các Cụ Tằng Tổ Khảo Thi sĩ Trần Xuân Cẩm; Cụ Tằng Tổ Trần Đình Hòe và cụ Tổ Trần Liêm lại đi ra tỉnh Thanh Hóa, huyện Quảng Xương, Tổng Thủ Hộ, xã Bằng Trình, làng Nhân Lý hỏi thăm Tổ tích, nhưng cũng mơ hồ không hỏi rõ được gì. Đến năm Tân Dậu (1921) đời vua Thành Thái, họ ta đã đi đoán tiền đồng phẩm, đoán rằng nguyên Tổ Tiên ta ở Nghệ An, huyện Yên Thành, xã Giai Lạc, làng Diệu Ốc. Đến đời cụ Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Chất, phụng mệnh ở tỉnh Thanh Hóa, lấy bà thiếp sinh được 2 con trai tên là Trần Đăng Nhàn và Trần Đăng Đoan. Thời ấy loạn lạc, cụ Tổ Trần Đăng Nhàn chạy loạn vào huyện Hương Sơn, làng Thịnh Xá, trong lời đoán đó, kể rõ thể thứ, tên tuổi và sự nghiệp rõ ràng, hiện có lời để lại, từ đó về sau họ ta cũng chưa kịp tổ chức đi nhận Tổ Tiên.
Đến năm Bảo Đại thứ
8, tháng 2 Quý Dậu(1933), cháu đời thứ 7 cụ Tằng Tổ Trần Đức Nghị (Cụ cố Nại) có nhận việc làm của Tòa Công
chính ở huyện Yên Thành, nhân dịp đó đã hỏi được Tổ tích nguyên ủy, y như lời
đoán đồng phẩm, sau này cụ Tằng Tổ Trần Đức
Nghị về đưa người họ cháu đời thứ 8 Hàn lâm viện đại chiếu Tổ Trần Văn Đại với Tổ Trần Viên cùng Tằng Tổ Trần Đức Nghị đi đến huyện Yên Thành, Tổng Quang Hóa, làng Diệu Ốc, đến nhà
quan Cử nhân - Hàn lâm kiểm thảo Trần Văn Hun làm giám tự, đã hỏi được Tổ tích
phù hợp, rõ ràng. Đến tháng 8 năm ấy, Cụ Nại với cháu đời thứ 8 Tú tài Tổ Trần Đình Huy, Thi
sĩ Tổ Trần Đình Đối, Tổ Trần Khắc Hoành(*), Trưởng tộc cụ Trần Ngôn đi tới nhà quan Giám tự Trần Văn Hun xin sao thể phổ, có đưa lễ
vật báo cáo ở phủ thờ, có cúng bạc 5$ (Quan)
và đi qua làng Vũ Kỳ báo cáo ở nhà thờ
Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Chất, có cúng bạc 3$ (Quan), sau khi làm lễ xong thì họ ta sao được thế phổ và rước
về phụng sự ở nhà thờ Đại tôn họ Trần làng Thịnh Xá, các vị Tổ Tiên họ Trần
chúng ta thờ ở phủ thờ làng Phúc Thọ và làng Vũ Kỳ huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ
An.
Cụ Cố Nại có câu:“Hải hữu nguyên” nghĩa là nước có nguồn, hiện nay đặt trước bái đường nhà thờ Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Dinh ở huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An
.,.
Ở Anh Sơn, Nghệ An có người đã tặng họ ta 2
bài thơ:
BÀI THƠ THỨ
NHẤT
Trần gia bản thị công khanh
Rạng soi đuốc ngọc, Yên Thành vinh thân,
Gặp lúc Mạc thị biến thần
Ruỗi tới Thanh Hóa Đồng Luân mở đường,
Cũng đều hương hữu dư khương
Sinh ra nam tử đôi chàng thế gian,
-------------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Theo cuốn “Gia phổ họ Trần” do cụ Đắc là
con cụ Tổ Trần Khắc Hoành ghi để lại thì cuốn gia phả cụ Hoành đã ghi là “Trích
ở gia phả họ Trần ở làng Diệu Ốc, xã Giai Lạc, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An
tháng 7-1933”nên đi đến Yên Thành có cả Tổ Trần Khắc Hoành.
Đã vẹn huynh đệ Đoan, Nhàn (*)
Nhàn thì gặp buổi xa gần vào ra,
Tới đến Thịnh Xá đỉnh tòa,
Sinh hạ Trần Tưởng (**) truyền gia hội đồng
Nhàn thác gặp buổi bắc đông,
Tống táng tư lễ chân vong thành phần,
Đã hay vẹn tỏ tha nhân
Đất này cũng có tốn tàn hoành hình,
Chỉ hiềm danh Biểu (***), danh Trinh
Phá mất cái cồn tam tinh hậu đầu
Tổ Tỷ cũng đã bảnh bao
Nhưng chốn Núi Nại, thổ châu mở đường,
Mộ này quy vu Nam phương
Chỉ thấy tiết lộ bình bàng lưu lại,
Tộc nội hưng vượng đinh tài
Lại thêm khoa mục các đài hiệu sinh
Xem ra sum họp đôi ngành
Nhờ chốn Sắn Trà hị Đinh Vị Tiền
Trần Tưởng được chốn tự nhiên
Lẽ ra tương tiếp quan viên anh hùng
Chỉ mắc danh Kiêm, danh Trung
Xâm cồn quản khế vòng cung triều về
Nam phương cao hóa vì đê
Cũng bởi danh Tinh, danh Khuê hay đào
……………………………………………
Thái phó đã rõ,
họ Trần
Quận công, hầu bá tướng quân Lê
triều
Yên Thành, Giai Lạc, Kim Âu
Diệu Ốc thôn nhận một bầu mới
thơm.
Túng sự họ ta gặp
tìm
Tìm được sự tích càng thêm
nhiều tầng
Lại tới xứ Thanh Trung Hưng
Bút quang Hà Tĩnh lưu quang
hiền đề
Kế tiếp Huân, Chiếu (****) tương tri
Lại thêm Đăng, Nghĩa, Nghệ (*****) khi cho đành
Mấy hồn trễ phách lanh danh
Cứ thử hợp tạ phân minh rõ ràng
Tự thử con cháu hiển dương
Rồi ra vẹn vẽ nam bang muôn
đời.
--------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Cụ Trần Đăng Nhàn là Cụ
Nhất Đại Thủy Tổ Khảo họ Trần xã Sơn Thịnh, Cụ Trần Đăng Đoan là anh ruột cụ
Trần Đăng Nhàn, ở xã Nam Trạch (Nay là xã Hương Bình), huyện Hương Khê, tỉnh Hà
Tĩnh.
(**)- Cụ Nhị Đại Thủy Tổ Khảo Trần Trọng Tưởng
(***)- Cụ Tứ Đại Thủy Tổ Trần Đinh Biểu đời 4/24 là Tộc Trưởng dòng họ chúng ta
(****)- Cụ
Tam Đại Thủy Tổ Khảo Trần Bá Huân và em ruột là cụ Trần Nhật Chiếu
(*****)- Cha
là Cụ Tam Đại Trần Trọng Đăng và hai người con là Trần Hữu Nghĩa và Trần Văn
Nghệ.
BÀI THƠ THỨ HAI
Trần gían bản thị quang huy
Xem đến thuở trước tam chi hào hùng.
Khoa mục tiếp bổ ngoài trong
Cũng đều mở tịch gia phong hào cường
Trần Nghĩa hướng hữu dư khương
Thôn nỗi hào hữu lỡ làng lắm thay
Tứ tự dự lẹi cùng tài
Trần Bạt hưởng phúc thái lai đăng tường (*).
Có muốn chen chót giải hương
Vừa tuần ắt được ghi phương thái bình
Một niềm kỳ đão tiên
sinh
Tài tầm trễ phách phân minh rõ ràng.
Chẳng cứ quân tử đa mang
Trăm năm ghi tạc đá vàng thổ sa.
Tộc nội mấy ông lão đã già
Tấm than chớ bức vội gà vinh than
Nhuận sắc cũng vẹn trong tuần
Hoa liên xếp lại hơi
dền mấy mươi
Chân nhân chớ bức sự đời
Xem ra cho biết một trai tu phòng
Phỏng qua cho khỏi ngưu long
Kẻo khi mấy hội bắc đông bất kỳ.
…………………………………
Trần thế
lưu lại đồng quan
Con cháu hãy có khai nhan khoa đề.
Nay chừ con cháu quá cô
Vài đời chẳng biết mơ hồ lắm thay …
Hà Nội,
ngày 29 tháng 6 năm 2016
BIÊN SOẠN
KS TRẦN ĐÌNH VIỆT
Trưởng chi I – Đời thứ
2/10/30
(THEO“GIA PHỔ HỌ TRẦN VÀ GIA PHẢ, GIA TỘC HỌ
TRẦN”)
--------------------------------------------------------------------------------------
(*)- Năm 1888 Tằng Tổ Trần Đình Bạt thi đậu Tú Tài
và ra làm quan, Cụ Bạt đời 7/27 đỗ tú tài đầu tiên của
dòng họ ta, cụ thuộc chi 2 đời 26 là con của Cao Tằng Tổ Trần Văn Nhạ, Tổ Nhạ
là em ruột Cao Tằng Tổ Khảo Trần Đức Mỹ chúng ta.
ĐỜI THỨ - 21
NHẤT
ĐẠI THỦY TỔ KHẢO
TRẦN ĐĂNG NHÀN
CHI – 7
ĐỆ NHẤT ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN ĐĂNG NHÀN - Quan viên tử, Hương lão lão nhiêu TRẦN MẠNH LINH tự TRỌNG NHÀN (*) thị đôn phác phủ quân, Nhất Đại
Thủy Tổ Tỉ tòng phu chức Trần Chính Thất LÊ THỊ HẠNG NHẤT PHU NHÂN
NHẤT ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN ĐĂNG NHÀN của chúng ta sinh khoảng năm Canh Thìn (1700) ở tỉnh Thanh Hóa, cha Ngài là Thủy Tổ Trần Đăng Chất trong lần đi khâm sai ở Thanh Hóa đã lấy thêm vợ hai sinh được hai người con trai, người con cả Trần Đăng Đoan vào lập ấp ở làng Nam Trạch, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh, khoảng đầu thế kỷ 18, trong lần đi hành khiển ở huyện Hương Sơn, Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn coi phong cảnh và đất đai ở địa phận Nhà Chàng (xứ Chàng Xá) rộng rãi, vui vẻ.
--------------------------------------------------------------------------------(*)- Theo cuốn “GIA PHẢ HỌ TRẦN” của cụ Trần Đình Khoa thì tự là ĐĂNG NHÀN.
Thủy Tổ Khảo di cư vào rồi chiêu dân lập ấp ở làng Thịnh Xá, lập nên dòng họ Trần duy nhất tại xã Sơn Thịnh sinh con cháu ngày càng đông đúc, phát triển phồn thịnh, đỗ đạt nhiều khoa bảng kế tiếp, đời đời dạng danh.
Nhất Đại Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn mất ngày 16/7.
Phần mộ của Nhất Đại Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn táng ở xứ Cầu Đở làng Tri Lễ (Nay là Sơn Lễ) trước núi Lợn (Trư Sơn), sau cách Hói Đam và phần Sơn, phần mộ Thủy Tổ Tỉ Lê Thị táng ở mái dương Núi Nại tức là phía Nam.
Ngày 15/01 Đinh Tỵ (Tức 04-3-1977) họ ta đã rước cả về xây thành khu lăng mộ ở Núi Nại, hiện nay là khu mộ tròn, nằm ở gần đỉnh giữa của núi Nại nếu ta đi từ làng lên núi và hướng nhìn lên núi Nại.
Nhà thờ Đại tôn họ Trần ở xã Sơn Thịnh thờ Nhất Đại Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn và Nhất Đại Thủy Tổ Tỉ Lê Thị cùng con cháu của Người, nhà thờ được xây dựng lại ngày 01/6 Ất Hợi tức ngày 03-7-1875. Vừa qua trong khuôn viên nhà thờ bên tả đã xây dựng xong nhà bia liệt sĩ họ Trần ta hy sinh qua các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ Quốc chống Pháp, chống Mỹ, biên giới Tây Nam và khánh thành vào ngày Thương Binh Liệt sĩ 27-7-2013, còn bên hữu không dõ thờ ai, xây lúc nào. Hai cụ Thủy Tổ sinh được 6 người con trai và một người con gái:
22-7-1 Thế Nhất Đại Thủy Tổ Khảo TRẦN TRỌNG TƯỞNG là Cụ Nhị Đại Thủy Tổ Khảo đời thứ 2/22 của chi họ chúng ta và Nhị Đại Thủy Tổ Tỉ là NGUYỄN THỊ DUYÊN, các cụ sinh được 6 người con, có 5 trai và một gái.
22-7-2 Nhị Đại Thủy Tổ TRẦN NHỊ LINH theo Đạo Phật còn lại không dõ tên
tuổi, Nhị Đại Thủy Tổ sinh được 4 người con trai và một người con gái, nay chi
này thất tích, cụ thể là:
23-2-1 Tam Đại Thủy Tổ Trần Bá Ngoạn làm
phó Sở sứ, sinh được bao nhiêu người con không dõ, có người con trưởng là:
24-1-1- Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Khán;
23-2-2 Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Đương;
24-1-1- Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Khán;
23-2-2 Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Đương;
23-2-3
Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Nhật;
23-2-4
Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Tập;
23-2-5
Tam Đại Thủy Tổ Trần Thị Bình;
22-7-3 Nhị Đại Thủy Tổ TRẦN TAM LINH sinh ba người con gái: con đầu
không rõ, con thứ hai là vợ chính thất vị hiệu sinh họ Hà; con thứ ba là:
23-3-3
Tam Đại Thủy Tổ Trần Thị Dung;
22-7-4 Nhị
Đại Thủy Tổ TRẦN TỨ LINH (Khuyết);
22-7-5 Nhị Đại Thủy Tổ TRẦN NGŨ LINH tự TRỌNG TẤN sinh một người con gái là:
23-5-1
Tam Đại Thủy Tổ Trần Thị Bái;
22-7-6 Nhị Đại Thủy Tổ TRẦN LỤC
LINH tự TRỌNG TIẾN, húy là Kiết, làm từ đường, Tổ có sinh được
4 người con trai và 2 con gái (*):
23-6-1 Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Thăng sinh được một con gái.
23-6-2
Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Sĩ - Làm ưu binh kiêm nội đạo, sinh
được 2 người con trai là:
24-2-1- Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Ngọc.
24-2-2- Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Thạch.
23-6-3 Tam Đại Thủy
Tổ Trần Trọng Lân húy là Quyến làm ưu binh, sinh hai người con trai là:
24-3-1- Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Gia Hội.
24-3-2- Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Thịnh.
23-6-4 Tam Đại Thủy Tổ Trần Thúc Đạt sinh con trai là:
24-4-1- Cao
Cao Cao Tằng Tổ Trần Đốc.
23-6-5 Tam Đại Thủy Tổ Trần Thị Chính.
23-6-6
Tam Đại Thủy Tổ Trần Thị Trình.
Chi Tổ Trọng Tiến hiện nay cũng không thấy
hậu duệ về nhận Tổ Tiên.
22-7-7 Nhị Đại Thủy Tổ TRẦN THỊ LÁI (CÁI) là vợ chính thất ngài xã trưởng họ
Nguyễn, về họ Nguyễn Xuân.
--------------------------------------------------------------------------------
(*) - Cháu của Tổ Trần Trọng Tiến
có ngài tên là Trần Cường không rõ con Tổ nào.
ĐỜI THỨ -
22
NHỊ
ĐẠI THỦY TỔ KHẢO
TRẦN TRỌNG TƯỞNG
CHI 1
ĐỆ NHỊ ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN TRỌNG TƯỞNG – Quan viên tôn, Hương trung kỳ lão,
bản xã xã trưởng TRẦN MẠNH CÔNG, tự là TRỌNG TƯỞNG thị cương trực phu quân, Nhị
Đại Thủy Tổ Khảo ta Ngài tên húy là YẾN, tự là ĐIỂU.
Nhị Đại Thủy Tổ Khảo Trần Trọng Tưởng mất ngày 08/6, phần mộ
ở trước lăng Sắn Trà, địa phận làng Đông Mỹ, giáp cận với làng ta.
Nhị Đại Thủy Tổ Tỉ tòng phu chức Trần
Chính Thất NGUYỄN
THỊ hạng nhất phu nhân, Nhị Đại Thủy Tổ Tỉ tên húy là DUYÊN, mất ngày 11/3, phần mộ ở trước lăng Sắn
Trà, địa phận xóm Cống ở gần đường.
Nhị Đại Thủy Tổ Khảo Trần
Trọng Tưởng và Nhị Đại Thủy Tổ Tỉ Nguyễn Thị Duyên được thờ phụng trong nhà thờ
Đại Tôn họ Trần xã Sơn Thịnh.(*)
Mộ phần của hai cụ nhị đại
Thủy Tổ hiện nay vào ngày 15/01 năm Đinh Tỵ tức ngày 04-3-1977 họ ta đã rước cả
hai Cụ Thủy Tổ về núi Nại.(**)
Nhị Đại Tổ sinh
được 5 người con trai và một người con gái:
23-1-1 Thế Nhị Đại Thủy Tổ Khảo TRẦN BÁ HUÂN - Là Cụ Tam Đại Thủy Tổ Khảo đời thứ 3/23, là ĐẠI CHI - 1 (***) của chi họ chúng ta, Cụ Tam Đại Thủy Tổ Tỉ là ĐINH THỊ
KHIÊM, Cụ sinh được 9 người con trai đến
ngày nay còn 6 chi và 2 người con gái.
23-1-2 Tam Đại Thủy Tổ TRẦN TRỌNG ĐĂNG – ĐẠI CHI - 2, Tiền Lê bản phủ hiệu hiệu sinh, kiêm bản xã xã quan Trần Quý Công tự Trọng Đăng, hiện thờ ở nhà thờ họ ta. Ngài tên húy là Tình, mất
ngày 20/3 phần mộ ở xứ ông voi hay rú Nại, ngày giỗ thì hợp tự với hai người
con trai là hai vị hiệu sinh Hữu Nghĩa và Văn Nghệ. Dòng họ của Cụ là dòng nho
học khoa bảng được tôn trọng, nhưng về sự phát đạt sinh tồn thì lại lắm éo le
trắc uẩn, người học có tiếng thì nhiều người đậu đạt thì quá hiếm. Ngài sinh hạ
được 4 người con trai:
24-2-1 Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Khuê (Khuyết)
--------------------------------------------------------------------------------
(*)- Theo linh vị trong nhà thờ Đại Tôn có 3
đại chi 1, 2, 3; có 9 chi lớn ví dụ nhành họ của tôi Linh vị ghi là “ĐẠI CHI 1,
CHI 6 BÁ PHẤN.
(**)- Cần xem lại có không, vì
bố trí không hợp lý ngôi thứ nếu có chuyển về - Theo cuốn “Gia phả, gia tộc họ
Trần”.
(***)- Từ
đời thứ 3/23 có ba cụ, trên Linh vị thờ trong nhà thờ họ có 9 Linh vị của 9 chi
gồm các cụ đời thứ 4/24 được ghi như sau:
Ví dụ chi 6 Thủy Tổ Khảo Trần Bá Phấn của chúng ta là Đại chi I chi 6 Bá Phấn .
24-2-2 Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Chương – Linh vị trong nhà thờ
họ ghi “ĐẠI CHI 2, CHI 7 TRỌNG CHƯƠNG”, cụ có
sinh:
25-2-1- Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Đán sinh:
26-1-1- Cao
Tằng Tổ Trần Trọng Chùy sinh:
27-1-1- Tằng Tổ Trần Trọng Đam sinh: 28-1-1)- Tổ Trần Trọng Giai (Tức cố Hán) sinh: 29-1-1- Cụ Trần Thống sinh: 30-1-1-
Ông Trần Đình Hiền sinh: 31-1-1) Trần Văn Tuấn, 2)Trần Văn Tư, 3)Trần Văn Toàn, 4)Trần Thị
Tuyết, 5)Trần Thị Tuyền. 30-1-2- Ông Trần Đình Hậu sinh: 31-2-1) Trần Văn Sanh; 2) Trần Văn Luận; 3)Trần Thị Oanh; 4)Trần Thị
Lành; 5)Trần Thị Lý; 30-1-3- Ông
Trần Đình Dũng sinh: 31-3-1)Trần Văn
Sơn; 2) Trần Thị Liên; 3) Trần Thị
Nguyệt; 4) Trần Thị Nga; 5) Trần Thị Hằng;
24-2-3 Cao Cao
Cao Tằng Tổ Trần Hữu Nghĩa; (Tú tài - Thất truyền)
24-2-4 Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Văn Nghệ.
(Tú tài - Thất truyền)
23-1-3 Tam Đại Thủy Tổ TRẦN TAM LINH tự là TRỌNG TỤY(Khuyết);
23-1-4 Tam Đại Thủy Tổ TRẦN TỨ LINH - Bản xã xã trưởng cựu ưu binh khuông tiền đội
chi thụ bá hộ, tự là ĐÌNH TRẠC, húy là ĐỒNG, sinh được một người con trai và 2 con gái:
24-4-1
Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Hách; (Thất truyền)
24-4-2
Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Thị Hoan (Hoa).
24-4-3
Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Thị Hoàn (Hoan).
23-1-5 Tam Đại Thủy Tổ TRẦN NHẬT CHIẾU – ĐẠI CHI - 3: Tiền Lê bản huyện sinh đồ, Bản xã xã trưởng, hương lão
lão nhiên Trần Quý Công tự là Nhật Chiếu, húy là Lăng, mất ngày 10/3, phần mộ ở rú Nại. Hiện nay con cháu ở về xóm
Cống. Thủy Tổ bà là ĐINH THỊ PHÙNG mất ngày 07/5, mộ ở rú Nại. Các Thủy Tổ sinh
được 6 người con trai và 1 con gái:
24-5-1 Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Cách húy là Vịnh sinh 1 người con
trai là:
25-1-1- Cao Cao Tằng Tổ Trần Đen;
(Thất truyền)
24-5-2 Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Thiên Hương, bản miếu suất đội thăng hiệp Quan
quản, cồn trúc Thiên Hương linh ứng sắc phong Linh thủy Trung đẳng tôn thần,
sinh hạ được 2 con trai là:
25-2-1- Cao Cao Tằng Tổ Trần Lễ.
25-2-2- Cao Cao Tằng Tổ Trần Nghĩa.
24-5-3 Cao Cao Cao Tằng Tổ
Trần Văn Xã (Bã) - Mất sớm
24-5-4 Cao
Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Bảo - Linh vị ghi “ĐẠI CHI – 3, CHI 8 ĐÌNH BẢO”,
sinh năm 1779, mất ngày 20/8, phần mộ ở rú Nại, sinh hạ được 5 người con trai,
cửa trưởng ở xóm Cống.
25-4-1- Cao
Cao Tằng Tổ Trần Đình Bưu 1802-1879, sinh:
26-1-1- Cao Tằng Tổ Trần Trọng Ngại (Can Nghĩa,
1822-1873) sinh:
27-1-1 Tằng Tổ TRẦN ĐÌNH HÒE (Cố Lý 1849-1904) cụ có công đi tìm gốc tích Tổ Tiên lần đi thứ 2 – Cụ sinh được 3 người con là:
28-1-1)- Tổ Trần Hoàn; 28-1-2)-
Tổ Trần Xanh; 28-1-3)- Tổ Trần Đình
Thưởng sinh: 29-3-1 Cụ Trần Đình Duệ sinh: Trần Tuấn, Trần Phi Sinh ; 29-3-2
Cụ Trần Đình Thung;.
27-1-2 Tằng Tổ Trần Đình Cửu (Cố Thục) sinh: 28-2-1)- Thi sĩ Tổ TRẦN ĐÌNH ĐỐI cụ có công đi tìm gốc tích Tổ Tiên lần đi thứ 2, Tổ sinh ra: 29-1-1 Cụ Trần Đình Lự sinh: 30-1-1 Ông Trần Đình Lan – Ông là người
ghi chép gia phả để lại cung cấp tư liệu cho việc biên soạn cuốn “Gia phả, gia
tộc họ Trần”, 30-1-2 Ông Trần Đình Nhân (Ở Giáp Nhất) sinh Trần Tuấn Anh, 29-1-2
Cụ Trần Đình Phong, 29-1-3 Cụ Trần Đình Dật; 29-1-4 Cụ Trần Đình Lục, 29-1-5 Cụ Trần Đình Bé, 29-1-6 Cụ Trần
Thị Liễu, 29-1-7 Cụ Trần Thị Năm; 28-1-2)- Tổ Bà giáo Thục; 28-1-3)- Tổ
bà Trần Thị Bích; 28-1-4)- Tổ bà Trần
Thị Liên;
27-1-3 Tằng Tổ Trần Nhượng(Cố Hạp) sinh: 28-3-1 Tổ Trần Hạp sinh 29-1-1
Cụ Trần Khâm, 28-3-2 Tổ Trần Cương
sinh 29-2-1 Cụ Trần Mai, 28-3-3 Tổ
Trần Phái sinh 29-3-1 Cụ Trần Nông; 29-3-2 Cụ Trần Thị Yên; 29-3-3 Cụ Trần
Thị Thìn; 29-3-4 Cụ Trần Thị Lạc; 28-3-4
Tổ Trần Hanh.
27-1-4 Tằng Tổ
Trần Thị Hương Cẩm;
26-1-2- Cao Tằng Tổ Trần Văn Khoát sinh:
27-2-1 Tằng Tổ Trần Khung sinh: 28-1-1 Trần Khiêm sinh: 29-1-1 Cụ
Trần Kiều sinh 30-1-1 Ông Trần Lương; 30-1-2 Ông Trần Quyền, 29-1-2 Cụ Trần Đàn
ở Thái Nguyên, 29-1-3 Cụ Trần Thị Hoè; 29-1-4 Cụ Trần Thị Huệ;
27-2-2 Tằng Tổ
Trần Khang;
27-2-3 Tằng Tổ Trần Trạch (Tức Cố Lai) sinh: 28-3-1 Tổ Trần Trạc sinh: 29-1-1 Cụ
Trần Cừ sinh 30-1-1 Ông Trần Sum;
29-1-2 Cụ Trần Khai (vô tự); 29-1-3 Cụ Trần Đoài sinh 30-3-1 Ông Trần Hoàn, 30-3-2
Bà Trần Thị Thìn; 29-1-4 Cụ Trần Đông sinh: 30-1-1
Ông Trần Thịnh, 30-1-2 Ông Trần Bình,
30-1-3 Ông Trần Vĩnh (Nhà cụ Đông ở Thái Nguyên gần nhà Bá Khảo
Trần Khắc Tửu tức bác Trần Khắc Hà, vợ cụ Đông là em vợ bác Tửu tức cụ Trần Thị
Nự. (Xem thêm trang 181). 28-3-2 Tổ TRẦN VIÊN (Cố Thiển) cụ có công đi tìm gốc tích Tổ Tiên lần đi thứ 3, cụ sinh: 29-2-1
Cụ Trần Liễu sinh 30-1-1 Ông Trần Phước, 30-1-2
Ông Trần Hướng, 30-1-3 Ông Trần Nam, 30-1-4 Bà Trần Thị Hằng, 29-2-2 Cụ Trần
Thị Xuân; 28-3-3 Tổ Trần Hiến sinh: 29-3-1 Cụ Trần Thân (Kỹ sư) sinh: 30-1-1 Ông Trần Nam; 29-3-2 Cụ Trần
Đường; 29-3-3 Cụ Trần Hải;
26-1-3- Cao Tằng Tổ Trần Văn Giao sinh:
27-3-1 Tằng Tổ Trần Loan sinh: 28-1-1 Tổ Trần Phan sinh: 29-1-1 Cụ Trần Cầu, 29-1-2 Cụ Trần Dương, 28-1-2 Tổ Trần San; 28-1-3 Tổ
Trần Ngũ; 28-1-4 Tổ Trần Lục; 28-1-5 Tổ Trần Tuý; 28-1-6 Tổ Trần Chiên; 28-1-7 Tổ Trần Thập; 28-1-8 Tổ Trần Thiêm; 28-1-9 Tổ TRẦN LIÊM cụ có công đi tìm gốc tích Tổ Tiên lần đi thứ 2;
26-1-4- Cao Tằng Tổ Trần Doãn Lan sinh:
26-1-4- Cao Tằng Tổ Trần Doãn Lan sinh:
27-4-1 Tằng Tổ
Trần Phan;
27-4-2 Tằng Tổ Trần Xuân (Cố Thiệu) sinh 28-2-1 Tổ Trần Cung;
27-4-3 Tằng Tổ Trần Dũng (Cố
Thụ).
26-1-5- Cao Tằng Tổ Trần Doãn Văn;
26-1-6- Cao Tằng Tổ Trần Xuân Ôn sinh:
27-6-1 Tằng Tổ
Trần Bẩy
26-1-7- Cao Tằng Tổ Trần Văn
Tặng- Cố Ích;
27-7-1 Tằng Tổ Trần Dục;
27-7-2 Tằng Tổ Trần Bẩy (Cố Hanh);
25-4-2 Cao
Cao Tằng Tổ Trần Hữu Kính sinh:
26-2-1- Cao Tằng Tổ Cố Điếu,
26-2-2-
Cao Tằng Tổ Trần Mỹ sinh:
27-2-1 Tằng Tổ Trần Hiền sinh: 28-1-1 Tổ Trần Diên sinh: 29-1-1
Cụ Trần Mậu sinh: 30-1-1 Ông Trần Tiến, 30-1-2 Bà Trần Thị Phương, 30-1-3 Bà
Trần Thị Nhung; 28-1-2 Tổ Trần Y
sinh: 29-2-1 Cụ Trần Vy sinh: 30-1-1
Ông Trần Quyền, 30-1-2 Ông Trần Hào, 30-1-3 Ông Trần Hiệp, 30-1-4 Bà Trần Thị Quý, 30-1-5 Bà Trần Thị Hòa; 28-1-3 Tổ Trần Tuyền sinh: 29-3-1 Cụ Trần Khả, 29-3-2
Cụ Trần Năng, 29-3-3 Cụ Trần Đức, 29-3-4 Cụ Trần Trí.
27-2-2 Tằng Tổ Trần Kỳ sinh: 28-2-1 Tổ Trần An,
25-4-3 Cao Cao
Tằng Tổ Trần Văn Đàm sinh:
26-3-1- Cao
Tằng Tổ Trần Minh;
27-1-1 Tằng Tổ Trần
Bình
27-1-2
Tằng Tổ Trần Hách
26-3-2- Cao Tằng Tổ Trần Lương.
27-2-1 Tằng Tổ
Trần Hậu sinh:
28-1-1 Tổ Trần Mâu, 28-1-2 Tổ Trần Tứ, 28-1-3 Tổ Trần Siêu.
25-4-4 Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Thụ sinh hai nữ.
25-4-5 Cao
Cao Tằng Tổ Trần Hữu Đạo sinh:
26-5-1- Cao Tằng
Tổ Trần Ân (Cố Lư)
27-1-1 Tằng Tổ Trần Lư sinh: 28-1-1 Tổ Trần Thịnh sinh 29-1-1
Cụ Trần Bình, 29-1-2 Cụ Trần Thìn.
27-1-2 Tằng Tổ Trần Thưởng sinh: 28-2-1 Tổ Trần Thiều sinh 29-1-
1 Cụ Trần Thắng, 28-2-2 Tổ Trần Đông (liệt sĩ).
24-5-5 Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Phu - Linh vị ghi “ĐẠI CHI – 3,
CHI 9 ĐÌNH PHU”, sinh được một người con trai
là:
25-5-1 Cao
Cao Tằng Tổ Trần Trọng Vinh sinh:
26-1-1- Cao Tằng Tổ Trần
Đình Phàn (Cố
Nghĩa Phàn) sinh:
27-1-1
Tằng Tổ Trần Đình Phàn sinh: 28-1-1 Tổ Trần Liên sinh: 29-1-1 Cụ
Trần Quý sinh: 30-1-1 Ông Trần Đức, 30-1-2 Ông Trần Lương.
27-1-2 Tằng Tổ Trần Đình
Chỉ sinh: 28-2-1 Tổ Trần Đình Chỉ.
27-1-3 Tằng Tổ
Trần Đình Đại sinh: 28-3-1 Tổ Trần Đình Đại sinh: 29-1-1
Cụ Trần Đình Đài sinh: 30-1-1 Ông
Trần Khuê, 30-1-2 Ông Trần Hoàn;
29-1-2 Cụ Trần Đình Lài sinh: 30-2-1
Ông Trần Đình Bính, 30-2-2 Ông Trần
Minh, 30-2-3 Ông Trần Văn Tô;
24-5-6 Cao
Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Hàm sinh 1 con gái là:
25-6-1- Cao Cao Tằng Tổ Trần Thị Tư (Thu) lấy về họ Nguyễn chính thất;
23-1-6 Tam Đại Thủy Tổ TRẦN THỊ BẢN - Bản phụ hiệu sinh, Nguyễn chính thất (Lấy về họ cụ
Hường);
ĐỜI THỨ - 23
TAM
ĐẠI THỦY TỔ
KHẢO
TRẦN BÁ HUÂN
ĐẠI CHI – 1
ĐỆ TAM ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN BÁ HUÂN - Tiền Lê bản phủ hiệu hiệu sinh, kiêm Bản Tổng, Chánh Tổng trưởng TRẦN QUÝ CÔNG tự là BÁ HUÂN, Hạnh lâm đường linh ứng, sắc
phong Binh phù Dực bảo Trung hưng, linh phù tôn thần. Ngài có sắc phong của triều
Nguyễn, trong Linh vị thờ có ghi: “Tiền Lê Hạnh lâm đường, bản phủ hiệu sinh,
bản tổng chánh tổng, Trần Tiên Công tự Bá Huân, sắc phong vinh phù dực bảo
trung hưng Thần vị”.
Tam Đại Thủy Tổ Khảo Trần Bá
Huân mất ngày 25/9, phần mộ ở núi Eo địa phận làng Văn Giang.
Tam Đại Thủy Tổ Tỉ ĐINH THỊ Hạng Nhất phu nhân, húy là KHIÊM, mất ngày 08/5, phần mộ ở mái dương núi Nại gần mộ Nhị Đại
Thủy Tổ Tỉ Nguyễn Thị Duyên.
Họ ta ngày
15/01 năm Đinh Tị (Tức ngày 04-3-1977) đã rước mộ Cụ Tam Đại Thủy Tổ Khảo Trần
Bá Huân và Tam Đại Thủy Tổ Tỉ về núi Nại trong khu mộ Thủy Tổ họ Trần ta, Cụ Tam
Đại Thủy Tổ Khảo Trần Bá Huân được thờ và có Linh vị thờ trong nhà thờ lớn Đại
Tôn họ Trần xã Sơn Thịnh.
Hai Cụ Tam
Đại Thủy Tổ đã sinh được 9 người con trai và 2 người con gái, nay ở nhà thờ họ
có bài vị của 6 chi. Cụ thể các con của Ngài là:
24-1-1 Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN ĐÌNH BIỂU- Chi 1:
Bản xã xã chánh y đạo Trùm trưởng, làm quan ở triều Lê đến tước hầu, Tổ húy là Siêu, Long, hiệu ông già Kiên, sinh năm 1760 tức Canh Thìn
đời vua Lê Anh Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 1, mất ngày 01/7 năm Ất Mùi, tức
05-8-1835 thọ 76 tuổi, Cao Cao Cao Tằng Tổ bà PHAN THỊ NIÊN hiệu TỪ PHÚC là
chính phu nhân, mất ngày 03/7 thọ 73 tuổi, phần mộ táng song hồn ở cầu Gôm, xứ
Cồn Trảo, Cồn Lội. Tổ sinh được 3 người con trai và 3 con gái:
25-1-1 Cao
Cao Tằng Tổ Trần Đình Trùm, sinh 6 người con trai:
26-1-1- Cao Tằng Tổ Trần Đình Ninh sinh:
27-1-1) Tằng Tổ Trần Đình
Tiêm (Huy) sinh
9 người con:
28-1-1) Tổ Trần
Đình Ngân sinh 8 người con:
29-1-1) Cụ TRẦN ĐÌNH VƯỢNG tức cụ Ngôn có công đi tìm gốc tích Tổ Tiên lần đi thứ 3, cụ sinh 4 người con là: 2 trai và 2
gái: 30-1-1- Ông Trần Hải bà là Hà Thị Đức sinh 4: 31-1-1)Trần Thanh Sơn, 2)Trần
Thanh Bình, 3)Trần Thanh Tường, 4)Trần Thị Thanh Tâm); 30-1-2-
Ông Trần Liệt Oanh(1926), ông đã cung cấp một số ảnh tư
liệu để đưa vào cuốn “Gia phả, gia tộc họ Trần” ông bà sinh 2 Trai, 3 gái: 31-2-1) Trần Liệt Thanh sinh: 32-1-1Trần
Hoàng Thịnh; 2) Trần Thị Thanh Hà; 3) Thị Thanh Hương; 4) Thị Thu Lan; 5) Trần
Tuấn Anh (Làm ở BHXH VN); 30-1-3- Bà Trần Thị Yên (tảo vong); 30-1-4- Bà Trần Thị Huyên (tảo vong); 29-1-2) Cụ Trần Đình Ôn; 29-1-3) Cụ Trần Đôn; 29-1-4)
Cụ Trần Viên; 29-1-5) Cụ Trần Thị Quế; 29-1-6) Cụ Trần Thị
Thống; 29-1-7) Cụ Trần Thị Nhỏ (Cụ Nhỏ là vợ cụ Đậu Phan và là
chị dâu cả của Hiền Tỉ Đậu Thị Lan); 29-1-8) Cụ Trần Thị Tiểu ở Phan Thiết.
28-1-2) Tổ Trần Đình Nghiêm sinh: 29-2-1) Cụ Trần Đình Liêm;
28-1-3) Tổ Trần Đình Tiêu, sinh 2 là: 29-3-1) Cụ Trần Đình Dương; 29-3-2) Cụ Trần Đình Tam.
28-1-4) Tổ Trần Đình Tám (Vinh) sinh: 29-2-1) Cụ Trần Xuân Lập ở Hương Khê;
28-1-5)
Tổ Trần
Chương;
28-1-6) Tổ Trần Đính;
28-1-7) Tổ Trần Thị Tiêm;
28-1-8) Tổ Trần Thị Chắt Phác;
28-1-9) Tô Trần Thị Hiến;
26-1-2 Cao Tằng Tổ Trần Đình Noãn;
26-1-3 Cao
Tằng Tổ Trần Đình Cán.
26-1-4 Cao Tằng Tổ Trần Đình Tĩnh;
26-1-5 Cao
Tằng Tổ Trần Đình Sáu;
26-1-6 Cao Tằng Tổ Trần Đình Bẩy;
25-1-2 Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Giá sinh 7 trai và 2 gái:
26-2-1) Cao Tằng Tổ Trần Đình Thôn sinh:
27-1-1) Tằng Tổ Trần Đình Phiên sinh;
28-1-1) Tổ Trần Hưng sinh 3 con: 29-1-1) Cụ Trần Duật; 29-1-2) Cụ Trần Hữu Thâm; 29-1-3)
Cụ Trần Bát.
28-1-2) Tổ Trần Đạt sinh: 29-2-1) Cụ Trần Thị Chương lấy chồng ở
Sơn Lễ; 29-2 -2) Cụ Trần Thị Minh
lấy chồng ở Sơn Châu; 29-2-3) Cụ Trần Thị
Nhỏ lấy chồng ở Đức Tân - Đức Thọ; 29-2-4)
Cụ Trần Văn Cầu vợ cả sinh Trần Quốc Hùng liệt sĩ, vợ hai sinh 2 gái một trai
là: Bà Trần Thị Hòa, bà Trần Thị Minh, ông Trần Cường sinh 2 con: 1 trai, 1 gái.
27-1-2)
Tằng Tổ Trần Đình Doãn (Thường
gọi là cố Trung) sinh:
28-2-1) Tổ Trần Đình Trung 1879- Tổ bà cả Hồ Thị Ba sinh: 29-1-1) Cụ Trần Văn Mai 1909; 29-1-2)
Cụ Trần Văn Bích 1911; 29-1-3) Cụ Trần Thị Em 1913; 29-1-4) Cụ Trần Thị Tiến 1915; 29-1-5) Cụ Trần Thượng Định 1925, sinh
6 người con; - Tổ bà hai là Hà Thị Em sinh 3 con trai: 29-1-6) Cụ Trần Tùng 1913 vợ là cụ Lưu Thị Yêm1915 sinh: 30-6-1
Ông TRẦN THANH TỊNH (1937)–Ông hiện
là trưởng ban
liên lạc họ Trần xã Sơn Thịnh ở Hà Nội (2017) và
trong ban biên soạn gia phả của họ. Vợ là Vũ Thị Phương
1951 sinh 2 con trai là: 31-1-1)Trần Thanh
Sơn 1974 vợ là Hà Thị Phương sinh năm 1984 sinh 2 con gái là Phương Anh và
Phương Linh; 31-1-2)Trần Quốc Thịnh
1976 vợ là Đặng Thị Nhung sinh năm 1980 sinh một con trai Trần Mạnh Đức. 30-6-2) Bà Trần Thị Thìn 1940; 30-6-3) Ông Trần Đình Quý 1943; 30-6-4) Bà Trần Thị Thanh Xuân 1949; 30-6-5)
Ông Trần Đình Mão 1951 vợ là Đậu Thị Bính; 30-6-6) Bà Trần Thị Thanh Hòa
1954; 29-1-7) Cụ Trần Thượng Võ
sinh năm 1916, sinh được 7 người con; 29-1-8) Cụ Trần Thượng Hợp sinh năm
1923, sinh được 4 người con.
28-2-2) Tổ Trần Nhật Đạt có 5
người con;
28-2-3) Tổ Trần Đình Lục;
28-2-4) Tổ
Trần Đình Tăng, sinh năm 1901, có con là: 29-4-1 Cụ Trần
Văn Bé sinh 1935 (Ất Hợi), Giáo sư, Tiến sĩ, Viện trưởng Viện Huyết
học TP Hồ Chí Minh – Anh hùng Lao động;
28-2-5)
Tổ
Trần Đình Các, sinh 1903;
28-2-6)
Tổ Trần Thị Vỵ;
28-2-7) Tổ Trần
Thị Ba;
27-1-3) Tằng Tổ Trần Đình Tiêm sinh:
28-3-1) Tổ Trần Đình Phúc;
26-2-2) Cao Tằng Tổ Trần Đình Vấn>Sinh 6 người con là: ( 3 trai, 3 gái)
27-2-1) Tằng Tổ Trần Liên - Cụ
sinh
được:
28-1-1 Tổ Cán Trinh.
27-2-2)
Tằng Tổ Cố Trần Xân sinh:
28-2-1
Tổ Trần Tuy.
27-2-3)
Tằng Tổ Cố Trần Vinh sinh:
28-3-1 Tổ Trần Kiên (Cố Hy) 1896 sinh 3 người con: 29-1-1) Cụ TRẦN ĐƯỜNG - Nguyên
trưởng ban liên lạc họ Trần xã Sơn Thịnh ở Hà Nội, và
là trưởng ban chỉ đạo biên soạn cuốn “GIA PHẢ, GIA TỘC HỌ TRẦN”. Chi họ của cụ phụng cúng tấm
bia “ĐỜI ĐỜI HIỂN VINH” gắn ở nhà thờ họ ta Cụ sinh ngày 08-10-1919 mất 2011,
có ba vợ sinh
được: 30-2-1) Ông Trần Đệ
sinh ba gái; 30-2-2) Ông
Trần Cương sinh Quân và Quốc; 30-2-3)
Ông Trần Lương sinh Trần Thị Thu; 30-3-4) Bà Trần Thị Hạnh; 30-3-5)
Bà Trần Thị Phúc; 30-3-6) Bà Trần Thị Kim Thanh; 30-3-7)
Bà Trần Thị Thanh Bình; 29-1-2)
Cụ Trần Thị Miên - Mất sớm; 29-1-3) Cụ Trần Thị Nhâm.
28-3-2 Tổ
Trần Kiền vợ là Tống Thị Định sinh: 29-2-1) Cụ Trần Quế; 29-2-2) Cụ Trần Thị Nga;
28-3-3 Tổ Trần
Huyên mất sớm;
28-3-4 Tổ Trần Thị Hiên (Cụ Mai) chồng Tống Mai;
28-3-5 Tổ Trần Thị Yên chồng là Hà Vượng;
27-2-4) Tằng Tổ Cố bà Vấn;
27-2-5) Tằng Tổ
Cố bà Trưởng;
27-2-6) Tằng Tổ
Cố bà Hòe.
26-2-3)
Cao
Tằng Tổ Nghĩa Định (Bích) sinh :
27-3-1) Tằng
Tổ Trần Hảo (Cán Hảo) sinh:
28-1-1)
Tổ Trần Nguyên Hanh;
28-1-2)
Tổ Trần Cầm;
28-1-3) Tổ Trần Xuân Đàm(Trần Kiểu) sinh: 29-3-1- Cụ TRẦN XUÂN KIỀU- Đại tá, cụ là phó ban liên
lạc họ Trần ở Hà Nội, là thành viên trong ban biên soạn, cụ và tôi đính chính
lại cuốn“Gia phả, gia tộc họ Trần”; 29-3-2 Cụ Trần Xuân Cát; 29-3-3
Cụ Trần Văn Bút, 29-3-4 Cụ Trần Xuân Toàn; 29-3-5 Cụ Trần Thị Đoàn; 29-3-6
Cụ Trần
Thị Hoàn; 29-3-7 Cụ Trần
Xuân Thành; 29-3-8 Cụ Trần
Xuân Tường; 29-3-9 Cụ
Trần Thị Hiền; 29-3-10 Cụ
Trần Thị Lành; 29-3-11 Cụ Trần
Thị Bàng; 29-3-12 Cụ Trần
Thị Tùng
28-1-4) Tổ Trần Xuân Cận;
26-2-4)
Cao Tằng Tổ Nghĩa Toan;
26-2-5)
Cao Tằng Tổ Nghĩa Lan;
26-2-6)
Cao Tằng Tổ Trần Bình sinh:
27-6-1 Tằng Tổ Trần Khang sinh:
28-1-1) Tổ Trần Hoán;
27-6-2 Tằng Tổ Trần Hiếu sinh:
28-2-1) Tổ Trần Đản;
27-6-3 Tằng
Tổ Trần Hương Hưng sinh:
28-3-1) Tổ Trần Hiên;
28-3-2) Tổ Trần Tuyên;
26-2-7) Cao Tằng Tổ Trần Hiểu;
26-2-8) Cao Tằng Tổ Trần Thị Nông lấy chồng họ Lê;
26-2-9) Cao Tằng Tổ Trần Thị … lấy chồng họ Đặng;
25-1-3 Cao
Cao Tằng Tổ Trần Đình Ngự vô tự, thờ ở chi 5 Trần
Đình Vưu Trưởng chi Trần Đình Ngôn phụng sự.
24-1-2- Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN ĐÌNH VÂN – Chi 2: Tổ là
hương lão lão nhiêu tự Đình Vân, húy là Tiệu, sinh được 4 người con trai và 3 con gái:
25-2-1 Cao
Cao Tằng Tổ Trần Đình Chính, Có trưởng tộc là cụ Trần Khắc Thiện Đời thứ 9/29 phụng sự.
25-2-2 Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Bình, sinh:
26-2-1) Cao
Tằng Tổ Trần Đoan.
25-2-3 Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Bảo.
25-2-4 Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Huynh.
Trưởng chi Trần Đoan phụng sự.
24-1-3-
Cao
Cao Cao Tằng Tổ TRẦN ĐỖ - Thất truyền;
24-1-4- Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN KHẮC XƯƠNG - Chi 3,
Cụ húy là Thịnh, sinh được 4 người con trai:
25-4-1 Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Nghi, sinh:
26-1-1 Cao Tằng Tổ Trần Đình Thạc sinh:
27-1-1) Tằng
Tổ Trần Duyệt
25-4-2 Cao Cao Tằng Tổ Trần Khắc Thuật sinh:
26-2-1 Cao Tằng Tổ Trần Thương sinh:
27-1-1) Tằng
Tổ Trần Triên (Tiến)
25-4-3 Cao Cao Tằng Tổ Trần Khắc Khoan;
25-4-4 Cao Cao
Tằng Tổ Trần Đình Tế;
Trưởng chi Trần Thuyết
phụng sự, nay trưởng Tôn ông Trần Nuôi đã di cư lên xã Sơn Thủy, việc họ do ông
Trần Phúc đại diện ở quê nhà.
24-1-5
Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN ĐỨC VƯU sinh 2 con gái: Một về họ Lê
chính thất, là mẹ quan huyện Đông triều và một về họ Hà chính thất là mẹ Quan
huấn họ Hà là ông Hàn Bã.
24-1-6 Cao Cao
Cao Tằng Tổ TRẦN
KHÁNH DUỆ - Chi 4, cụ tên húy là Lựu sinh được 13 con trai và 4 con
gái, con trai là:
25-6-1 Cao Cao Tằng Tổ Trần Huy, hiện nay Tôn trưởng là ông Trần Dũng ở xóm Đông xã Sơn Thịnh ta.
25-6-2 Cao Cao Tằng Tổ Trần Khai
25-6-3 Cao Cao
Tằng Tổ Trần Công Lý, húy là Ngâng
25-6-4 Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Bá
25-6-5 Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Hạnh
25-6-6 Cao Cao
Tằng Tổ Trần Đình Hòe
25-6-7 Cao Cao
Tằng Tổ Trần Đình Liệu
25-6-8 Cao Cao Tằng Tổ Trần Hòa
25-6-9 Cao Cao
Tằng Tổ Trần Hỷ
25-6-10
Cao
Cao Tằng Tổ Trần Đắc
25-6-11
Cao
Cao Tằng Tổ Trần Kiều
25-6-12
Cao
Cao Tằng Tổ Trần Lư
25-6-13 Cao
Cao Tằng Tổ Trần Đình Quế (Ba Đông), sinh:
26-13-1 Cao Tằng Tổ Trần Tuy sinh:
27-1-1) Tằng Tổ Trần Văn sinh:
28-1-1 Tổ Trần Chương sinh:
29-1-1 Cụ Trần Hùng (liệt sĩ); 29-1-2
Cụ Trần Dũng sinh: 30-2-1) Ông Trần Đắc; 30-2-2) Ông Trần Cần; 30-2-3) Ông Trần Cả; 30-2-4) Ông Trần Dư và 3 nữ.
28-1-2 Tổ Trần Bàng sinh: 29-2-1 Cụ Trần Nghĩa (liệt sĩ); 29-2-2 Cụ Trần Danh; 29-2-3
Cụ Trần Dương; và 3 nữ.
26-13-2
Cao Tằng Tổ Trần Cát Tường sinh:
27-2-1)
Tằng Tổ
Trần Cát Khang sinh:
28-1-1 Tổ Trần Hiên sinh: 29-1-1) Cụ Trần Thành sinh: 30-1-1 Ông Trần Đạt; 30-1-2 Bà Trần Thị Hồng; 30-1-3 Bà Trần Thị Hà.
24-1-7 Cao Cao
Cao Tằng Tổ TRẦN
ĐÌNH CỔ - Chi 5: Tên húy của cụ là Trạng, là xã trưởng, cụ mất ngày 28-02, Tổ bà là PHAN THỊ ĐIỀM, Cụ mất ngày 11/7, sinh được 3
người con trai:
25-7-1 Cao Cao Tằng Tổ Trần Khắc Tuấn (Minh), Cao cao tằng tổ bà là Đinh Thị Ky, mất 16/6, cụ sinh được:
26-1-1 Cao
Tằng Tổ Trần Khắc Dinh sinh:
27-1-1) Tằng Tổ Trần Bích - Tuyệt tự;
27-1-2) Tằng Tổ Trần Tích sinh:
28-2-1 Tổ Trần Thị Hương;
28-2-1 Tổ Trần Thị Liên;
26-1-2 Cao
Tằng Tổ Trần Hàn Châu (Cố
Trùm Vấn) sinh:
27-2-1) Tằng Tổ
TRẦN ĐỨC NGHỊ - Cụ là người đi hỏi, tìm được gốc Tổ họ Trần làng Thịnh Xá chúng
ta ở huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, Cụ sinh được 5 người con là:
28-1-1 Tổ Trần Đình Nại, Tổ bà
là Bùi Thị Xuân sinh 8 người con: 29-1-1 Cụ Trần Đình Khôi sinh: 30-1-1 Ông
Trần Huân; 30-1-2 Ông
Trần Hùng; 29-1-2 Cụ Trần Đình Đa sinh: 30-2-1 Ông Trần Hải; 30-2-2 Bà Trần Thị Hoàng; 29-1-3 Cụ Trần Thị Bá; 29-1-4
Cụ Trần Thị Khánh; 29-1-5 Cụ
Trần Thị Lạng; 29-1-6 Cụ Trần Thị
Hòa; 29-1-7 Cụ Trần Thị Phước; 29-1-8 Cụ Trần Thị Nha.
28-1-2 Tổ Trần Đình
Đang sinh Trần Đình Anh mất lúc 4 tuổi;
28-1-3 Tô TRẦN ĐÌNH DỤC: Cố Dục là người góp công
đức rất nhiều nên nhà thờ họ Trần ta ở Sơn Thịnh ngày nay được chỉnh trang tu sửa
rất đẹp. Đường vào nhà thờ được mở rộng và bê tông hóa. Cố Dục là tác giả chính trong biên
soạn cuốn “GIA PHẢ, GIA TỘC HỌ TRẦN”. Cụ và gia tộc của cụ phụng
cúng tấm bia: “HÀO
KHÍ ĐÔNG A” gắn ở nhà thờ. Cố Dục đã mất năm 2012 hưởng
thọ 97 tuổi, Cố Dục sinh được 5 người con là: 29-3-1) Cụ Trần Định; 29-3-2) Cụ Trần Long (Học vị Tiến sĩ)
sinh: 30-2-1 Ông Trần Long Vân; 30-2-2
Bà Trần Nguyệt Viên; 30-2-3 Bà Trần Nguyệt Hằng; 29-3-3)
Cụ Trần Thị Bạch Mai; 29-3-4) Cụ
Trần Thị Thanh Mai; 29-3-5) Cụ Trần
Thị Hoàng Mai.
28-1-4 Tổ Trần
Thị Phong;
28-1-5
Tổ Trần Thị Châu;
27-2-2) Tằng Tổ Trần Thân (Thiện) sinh:
28-2-1 Tổ Trần
Chín sinh 2 trai là: 29-1-1) Cụ Trần Lưu sinh 6 con là: 30-1-1 Ông Trần Quảng; 30-1-2 Ông Trần
Trọng; 30-1-3 Ông Trần Quang; 30-1-4 Bà
Trần Thị Luyện, 30-1-4 Bà Trần Thị Hồng,
30-1-4 Bà Trần Thị Hiền; 29-1-2) Cụ Trần Lộc - Liệt sĩ.
25-7-2 Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Quận;
25-7-3
Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Thảo;
Trưởng chi Trần Tích phụng sự.
24-1-8 CAO CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO TRẦN BÁ PHẤN - Cụ thuộc Đại Chi 1 - Chi 6: Là Cụ Cao Cao
Cao Tằng Tổ Khảo đời thứ 4/24 của chi họ chúng ta, Cụ CAO CAO CAO TẰNG TỔ TỈ
NGUYỄN THỊ THUẦN, các cụ sinh được 5 người con trai và 2 người con gái, gồm các
cụ là: Trần Đình Phong, Trần Đình Cử, Trần Đình Nhậm, Trần Duy Đức, Trần Trọng
Mưu và còn hai cụ bà không biết tên, cụ thể sẽ trình bầy ở phần sau.
24-1-9
Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN
DUY MINH;
24-1-10 Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN THỊ NHÔNG sinh Cao Cao Tằng Tổ Trần
Thị Thành;
24-1-11 Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN THỊ THANH;
ĐỜI
THỨ - 24
CAO CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO
TRẦN
BÁ PHẤN
CHI 6
ĐỜI THỨ - 25
CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO
TRẦN ĐÌNH CỬ
CHI – 2
ĐỜI
THỨ – 26
CAO TẰNG TỔ KHẢO
TRẦN ĐỨC MỸ
TRƯỞNG CHI – 1
ĐỜI THỨ –
2
TẰNG TỔ KHẢO
TRẦN
XUÂN CẨM
CHI – 3
ĐỜI THỨ - 28
TỔ KHẢO
TRẦN KHẮC TRI
TRƯỞNG
CHI – 1
LƯỢC BẢN TIỀN BIÊN
GIA PHẢ HỌ TRẦN Ở LÀNG THỊNH
XÁ
(Thịnh Xá ngày nay là xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn,
tỉnh Hà Tĩnh)
Đ
Ờ
I
|
TỔ
KHẢO
|
TỔ
TỈ
|
CÁC
NGƯỜI CON
|
GHI
CHÚ
|
21
|
NHẤT
ĐẠI THỦY
TỔ KHẢO
TRẦN
ĐĂNG
NHÀN
Sinh khoảng năm 1700,
mất 16/7.
|
NHẤT
ĐẠI THỦY TỔ TỈ
TRẦN CHÍNH THẤT
LÊ THỊ
|
22-7-1 Trần Trọng Tưởng
22-7-2
Trần Nhị Linh
22-7-3
Trần Tam Linh
22-7-4
Trần Tứ Linh
22-7-5
Trần Trọng Tấn
22-7-6
Trần Trọng Tiến
|
- Thất truyền
-
Khuyết
-
Thất truyền
-
Thất truyền
-
Không tìm được
|
22
|
NHỊ ĐẠI
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN TRỌNG TƯỞNG
Mất 08/6
|
NHỊ ĐẠI THỦY TỔ
TỈ
NGUYỄN THỊ
DUYÊN
Mất 11/3
|
23-1-1 Trần Bá Huân
23-1-2
Trần Trọng Đăng
23-1-3
Trần Trọng Tụy
23-1-4
Trần Đình Đồng(1)
23-1-5
Trần Nhật Chiếu
23-1-6
Trần Thị Bản
|
-
Đại chi I -
Đại chi II
-
Khuyết
- Đời con thất truyền.
-
Đại chi III
|
23
|
TAM ĐẠI
THỦY TỔ
KHẢO
TRẦN
BÁ
HUÂN
Mất 25/9
|
TAM ĐẠI
THỦY TỔ
TỈ
ĐINH
THỊ
KHIÊM
Mất 08/5
|
24-1-1
Trần Đình Biểu
24-1-2
Trần Đình Vân
24-1-3
Trần Đỗ
24-1-4
Trần Khắc Xương
24-1-5
Trần Đức Vưu
24-1-6
Trần Khánh Duệ
24-1-7
Trần Đình Cổ
24-1-8 Trần Bá Phấn
24-1-9
Trần Duy Minh
24-1-10
Trần Thị Nhông
24-1-11
Trần Thị Thanh
|
-
Chi 1
-
Chi 2
-
Thất truyền
-
Chi 3
-
Thất truyền
-
Chi 4
-
Chi 5
-
Chi 6
-
Vô tự
|
24
|
CAO CAO CAO
TẰNG TỔ KHẢO
TRẦN BÁ PHẤN
Mất 20/5
|
CAO CAO CAO
TẰNG TỔ
TỈ
NGUYỄN THỊ THUẦN
Mất 20/02
|
25-8-1 Trần Đình Phong
25-8-2 Trần Đình Cử
25-8-3 Trần Đình Nhậm
25-8-4 Trần Duy Đức
25-8-5+6 Hai cụ bà (2)
|
- Thất truyền
(2)Hai cụ bà
không dõ tên đều về họ Lê
|
25
|
CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO
TRẦN
ĐÌNH
CỬ
Mất 26/02
|
CAO CAO TẰNG TỔ TỈ
NGUYỄN
THỊ
KHIÊM
Mất 19/5
|
26-2-1 Trần Đức Mỹ
26-2-2 Trần Văn Nhạ
26-2-3 Trần Trọng Mưu
26-2-4 Trần Văn Nhạc
26-2-5 Trần Thị ….. (3)
26-2-6 Trần Thị ….. (3)
26-2-7 Trần Thị ….. (3)
|
-
Mất sớm
(3) Ba cụ bà
không dõ tên và mộ ở đâu
|
26
|
CAO TẰNG TỔ KHẢO
TRẦN ĐỨC MỸ
Sinh năm 1830 (Canh Dần),
mất 06/11 Tân Mão (tức 06-12-1891)
|
CAO TẰNG
TỔ TỈ
HÀ
THỊ HẠNG NHẤT
Mất 20/4 và Cao Tằng Tổ thứ Tỉ
LÊ
THỊ HẠNG TỨ Mất 22/5
|
27-1-1
Trần Đình Khoán
27-1-2
Trần Bá Đính
27-1-3 Trần Xuân Cẩm
27-1-4
Trần Đình Bân
27-1-5
Trần Cường
27-1-6 Trần Đình Ngan (Xan)
27-1-7
Trần Mười Nậy
27-1-8 Trần Mười Con
27-1-9 Trần Thị Xang
27-1-10
Trần Thị Tú Thân
|
-
Mất sớm
-
Mất sớm
-
Mất sớm
|
27
|
TẰNG TỔ KHẢO
TRẦN
XUÂN
CẨM
Sinh 1856, Bính Thìn,
mất 14/02
Kỷ
Mùi (tức ngày 15-3-1919)
|
TẰNG TỔ TỈ
HÀ
THỊ
Ý
Sinh 1861 Tân Dậu, mất 03/01 Giáp Thân (tức
ngày 27-01-1944)
|
28-3-1
Trần Kỳ
28-3-2
Trần Khắc Trạch
28-3-3 Trần Khắc Tri (Chon)
28-3-4
Trần Khắc Hoành
28-3-5
Trần Khắc Mại
28-3-6
Trân Thị Trùm
28-3-7
Trần Thị Bát
28-3-8
Trần Thị Em Con
28-3-9
Trần Thị Cửu
|
-
Mất sớm
-
Thất truyền
- Cửa tộc trưởng
- Bà Cô Tổ
- Bà Cô Tổ
|
28
|
TỔ KHẢO
TRẦN
KHẮC TRI (CHON) Sinh năm 1895 (Ất Mùi),
mất 01/6 Đinh Sửu, tức ngày 08-7-2037.
|
TỔ TỈ
NGUYỄN THỊ CHẮT sinh 1896 (Bính Ngọ), mất ngày 10/12 Tân Sửu, tức 15-01-1962. |
29-3-1
Trần Khắc Hà
29-3-2
Trần Khắc Thành
29-3-3
Trần Đức Thịnh
29-3-4 Trần Khắc Tửu (Hà)
29-3-5 Trần Đình Phú(*)
29-3-6
Trần Đình Quý
29-3-7 Trần Khắc Thêm
(**)
29-3-8
Trần Thị Dượng
29-3-9
Trần Thị Dục
|
-
Thất tích
- Thất truyền
- Mất sớm
|
PHẦN THỨ IV
GIA TỘC HỌ TRẦN
CHI 3
ĐỆ NHẤT HIỀN KHẢO
TRẦN ĐÌNH PHÚ
ĐỜI
THỨ - 1/9/29
ĐỆ NHỊ ÔNG
TRẦN ĐÌNH VIỆT
ĐẠI
CHI 1 - ĐỜI THỨ 2/10/30
NHỮNG NGÀY GIỖ TỔ
Phần
1
1- THỦY TỔ KHẢO TRẦN THỪA mất 18/01 năm Giáp Ngọ (1234).
2- THỦY
TỔ KHẢO TRẦN
CẢNH mất 01/4 năm Bính Tí
(1276)
3- THỦY TỔ KHẢO TRẦN QUANG KHẢI mất 03/7 Giáp Ngọ
4- THỦY TỔ KHẢO TRẦN NGUYÊN ĐÁN mất 14/11 Canh Ngọ (1390)
Phần 2
1- 26/10 THỦY TỔ KHẢO TRẦN NGUYÊN HÃN
01/02 Ngày lễ hội tại đền Trần Tả Tướng ở
Lập Thạch Vĩnh Phúc
2- 15/7/1519 THỦY TỔ KHẢO TRẦN PHÁP ĐỘ
18/3 Ngày lễ hội tại đền thờ THỦY TỔ KHẢO thôn Đan Trung
3- 27/3 THỦY TỔ KHẢO TRẦN THIỆN TÍNH
27/3 THỦY TỔ TỈ LÊ THỊ TAM NƯƠNG hiệu
Từ Phúc
4- 14/8 THỦY TỔ
KHẢO TRẦN CHÂN THIÊN
04/5 THỦY TỔ
TỈ THÁI THỊ TỪ NƯƠNG
5- 23/10/1613
THỦY TỔ KHẢO TRẦN THỌ
23/3 THỦY TỔ TỈ TRẦN THỊ ĐÀI
6- 01/7/1635 THỦY TỔ KHẢO TRẦN VĂN NGẠN
03/7 THỦY TỔ
TỈ PHAN THỊ NIÊN
7- 16/8 THỦY TỔ KHẢO TRẦN TUẤN KIỆT
15/6 THỦY TỔ
TỈ PHAN THỊ THIỆN
8- 27/3/1691 THỦY TỔ KHẢO TRẦN ĐĂNG DINH
24/5/1659 THỦY TỔ TỈ NGUYỄN THỊ QUÝ
9- 12/3 THỦY TỔ
KHẢO TRẦN ĐĂNG DUNG
01/10 THỦY TỔ
TỈ LÊ THỊ ĐỊNH
10- 05/5 THỦY TỔ KHẢO TRẦN ĐĂNG CHẤT
THỦY TỔ
TỈ TRẦN CHẮC THẤT
Phần 3
1- 14/7
CỤ NHẤT ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN ĐĂNG NHÀN
CỤ NHẤT ĐẠI THỦY TỔ TỈ LÊ THỊ
2- 08/6
CỤ NHỊ ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN TRỌNG TƯỞNG
11/3
CỤ NHỊ ĐẠI THỦY TỔ TỈ NGUYỄN THỊ DUYÊN
3- 25/9
CỤ TAM ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN BÁ HUÂN
08/5
CỤ TAM ĐẠI THỦY TỔ TỈ ĐINH THỊ KHIÊM
4- 20/5
CỤ CAO CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO TRẦN BÁ PHẤN
20/02
CỤ CAO CAO CAO TẰNG TỔ TỈ NGUYỄN THỊ THUẦN
5- 26/02
CỤ CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO TRẦN ĐÌNH CỬ
19/5 CỤ
CAO CAO TẰNG TỔ TỈ NGUYỄN THỊ HẠNG NHẤT
6- 06/11/1891
CỤ CAO TẰNG TỔ KHẢO TRẦN ĐỨC MỸ
20/4 CỤ CAO TẰNG TỔ TỈ HÀ THỊ HẠNG NHẤT
22/5 CỤ CAO TẰNG TỔ TỈ (bà hai) LÊ THỊ
HẠNG TỨ
7- 03/01/1944
CỤ TẰNG TỔ KHẢO TRẦN XUÂN CẨM
14/02/1919 CỤ TẰNG TỔ TỈ HÀ THỊ Ý
8- 01/6/1937 CỤ TỔ KHẢO TRẦN KHẮC TRI (Tức Khắc Chon)
10/12/1961 CỤ TỔ TỈ NGUYỄN THỊ CHẮT
Phần 4
1- 07/8/2002
CỤ HIỀN KHẢO TRẦN ĐÌNH PHÚ
24/10/2000 CỤ HIỀN TỈ ĐẬU THỊ LAN
16/7/2017 ĐỆ HUYNH TRẦN ĐÌNH THẮNG
QUÊ HƯƠNG!
(Tham khảo theo Cụ Trần Đình Khoa)
Quê
hương chúng ta ở xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh
Hà Tĩnh, Tằng Tổ Khảo Trần
Xuân Cẩm ở xóm
Thịnh Nam, Tổ Khảo Trần Khắc Tri sinh ra ở xóm Thịnh Nam, sau khi xây dựng gia
đình ra ở xóm Thịnh Bình. Nguyên
tên xã Sơn Thịnh xưa
kia là thôn Chàng Xá, lau lách um tùm, dân cư thưa thớt, Cụ Thủy Tổ Khảo
Trần Đăng Nhàn của chúng ta đã về đây lập ấp, khai khẩn phát triển ngày càng
phồn thịnh.
Thôn
Chàng Xá ta xưa có sông chảy qua giữa làng, có vực sâu thẳm sau bồi thành đồng
ruộng, nay gọi là đồng Vực ở giữa xóm Tây, xóm Cống ta và có cầu làng Vạn là
chỗ ngư dân ở trước, tức cái cầu nhỏ ở gần xóm Soi, có nhiều Bàu ao ở xóm Bàu,
cũng là chỗ dòng sông chảy qua, hiện còn có cái Trọt
(Ngòi) chảy từ chợ Gôi xuống qua cầu Nhà
Thánh xuống xóm Bàu Thượng ra Bến Cơn Bàng. Sau này chỗ bồi, chỗ lở dòng sông
chảy giáp làng Choi như ngày nay, nhưng còn cắt xóm Dinh sang bên làng Choi.
Người đến lập ấp, định cư sinh nở ngày càng đông đúc, trong đó có con cháu Thủy
Tổ họ Trần ta, nên Tràng Xá dần dần sau này đổi
thành Thịnh Xá, rồi lại đổi thành xã
Sơn Thịnh ngày
nay.
Thịnh Xá phía Bắc có núi Thiên Nhẫn (Núi Nại),
phía Nam có sông Ngàn Phố, phía Đông giáp làng Văn Giang, có cái Hói (Ngòi)
chảy qua giữa hai làng, phía Tây giáp làng Gôi Mỹ. Thịnh Xá chia làm 12 xóm:
1-
Xóm
Tây là xóm Thịnh Nam, là nơi cụ Tằng Tổ Khảo Thi Sĩ Trần Xuân Cẩm (Đời thứ 7) ở
và chỉ cách đường là nhà thờ lớn họ Trần ta, hiện nay ông trưởng tộc là Trần
Đình Nguyên (Đời thứ 10/30) ở trên toàn bộ đất của cụ Tằng Tổ Khảo Trần Xuân
Cẩm. Là xóm có đền thờ Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, đền Bạch Vân, có nhà Thánh
và chùa.
2-
Xóm
Bàu Thượng (Thịnh Thượng).
3-
Xóm
Bàu Hạ - Xóm họ Đặng Cán.
4-
Xóm Trang.
5-
Xóm Hà
(Thịnh Mỹ).
6-
Xóm
Thượng còn gọi là xóm buôn ven sông Ngàn Phố, có bến Cơn Bàng và bến Cầu Bãi.
Họ bên ngoại của ta ở bến Cơn Bàng.
7-
Xóm
Xoi ở ven sông Ngàn Phố có bãi cát gọi là bãi Bè (Vì trước có phiên chợ bán các
bè gỗ, bè nữa). Nhà Cụ Tổ Khảo Trần Khắc Tri và Cụ Hiền Khảo Trần Đình Phú của
chúng ta ở đây, nay là xóm Thịnh Bình.
8-
Xóm
Cống ở chân núi Thiên Nhẫn.
9-
Xóm
Đông ở ven sông Ven Hói giáp làng Văn Giang.
10- Xóm Vườn giáp bãi Hói.
11- Xóm Cồn.
12- Xóm Dinh giáp Choi và Cam Mỹ.
Sau cách mạng tháng Tám – 1945, Thịnh Xá và
Văn Giang sát nhập làm một gọi là xã Thịnh Văn. Văn Giang, phía Tây giáp Hói,
phía Nam giáp sông Ngàn Phố, phía Bắc và phía Đông giáp núi Thiên Nhẫn. Qua
Chuông Mèn sang bên kia là xã Nam Kim huyện Nam Đàn – Nghệ An. Năm cải cách
ruộng đất, cán bộ đội đổi xã Thịnh Văn là xã Sơn Thịnh như ngày nay.
Xã Sơn Thịnh chúng ta cách Vinh chừng 30
km, các cụ xưa kia thường đi lại như sau:
Đi ô tô khách qua Bến Thủy lên Đức Thọ,
xuống ô tô ở Linh Cảm đi bộ đến chợ Choi thì xuống đi đò sang sông là đến chừng
6 km, đi đường sông thì xuống ca nô ở Bến Thủy đi lên Linh Cảm. Nếu đi xe đạp
từ Vinh về Sơn Thịnh: Từ cầu Tràng Tiền lên chợ Tràng (13km) từ chợ Tràng qua
sông Lam đến Vĩnh Đại rồi đến chợ Trổ (5km), đến Đức Thọ (7 km), từ Đức Thọ đến
Linh Cảm (3 km) rồi về chợ Choi, ngày nay đã xây cầu Mỹ Thịnh, không phải đi
đò. Nếu đi bộ từ Vinh đến Nam Kim – Nam Đàn rồi trở lại Tân Hợp (9km), từ Tân
Hợp qua Chuông Mèn đến Thịnh Xá (7km).
Ngày nay, từ Hà Nội đến bến xe Nước Ngầm
về quê đi xe Hương Sơn xuống ngã ba Nầm rẽ phải về cầu Mỹ Thịnh đi qua cầu rẽ
trái 30 m là đất của cụ cố ngoại có nhà cụ Đậu Phan, cụ Đậu Tam, cụ Đậu Cẩu.
Nếu theo đường Hồ Chí Minh đến thị trấn Phố Châu huyện Hương Sơn - Tới quốc lộ
8, rẽ trái đi 15 km về ngã ba Nầm rồi về cầu Mỹ Thịnh, nếu đi 14km rẽ trái qua
cầu treo ở Nầm rẽ phải khoảng 2 km rẽ trái 300m rồi rẽ phải 100m là tới nhà ông
Trần Thanh Bình (Đời thứ 10/30) ở xã Sơn Ninh, gần trường tiểu học, bưu điện xã
Sơn Ninh. Nếu đi từ thị xã Hồng Lĩnh về theo quốc lộ 8A, qua cầu Linh Cảm nếu
rẽ phải qua xã Sơn Tân về cầu Mỹ Thịnh, hoặc đi theo đê Sơn Tân (Đường 8 cũ) về
cầu Mỹ Thịnh đường nhỏ khoảng gần 6km, nếu đi theo quốc lộ 8A tới ngã ba Nầm rẽ
phải về cầu Mỹ Thịnh (Đường to khoảng gần 15km).
Qua cầu Mỹ Thịnh nếu đi thẳng khoảng 500 m đến ngã ba rẽ trái về nhà thờ
lớn họ Trần, bên cạnh nhà thờ là
đất của Can nội tức Cụ Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm (Đời thứ 7), hiện nay (Năm 2017) nhà ông Nguyên tộc
trưởng ở tất cả.
Nhà của Cụ Cố Tổ Khảo Trần Khắc Tri (Tức Cụ
Chắt Chon - Đời thứ 8) hiện nay không còn nhà, đất vì cụ Thêm ở sau cùng, đến khoảng
trước năm 1980 đã bán hết chuyển lên Sơn Quang và nhà của Cụ Hiền Khảo Trần
Đình Phú của chúng ta Hiền Khảo đã bán từ sau khi chuyển ra Hà Nội khoảng năm
1960 và đã đưa hết tiền cho Tổ Tỉ. Nhà của Tổ Khảo và Hiền Khảo đều ở xóm Xoi sau này thay đổi gọi là xóm Thịnh Bình,
gần trường tiểu học Sơn Thịnh, nhà nhìn ra sân bóng đá ven sông Ngàn Phố.
Phần mộ Tổ Tiên ở núi Thiên Nhẫn (Rú
Nại), đường từ cầu Mỹ Thịnh đi thẳng
khoảng 4 km, qua cánh đồng là nhìn thấy núi, khi đi đến ngòi (Hay cái khe), có cầu, có
cây to, đứng nhìn lên phía Bắc khoảng 500m
là núi Nại. Núi Nại có
3 ngọn: Ngọn ở giữa gần đỉnh là khu mộ của
Cụ đệ nhất Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn - Đời thứ 1. Khu
mộ của chi họ chúng ta ở phía Tây núi Nại gần đỉnh núi, tức từ làng đi lên nhìn
vào núi thì ở bên trái là khu mộ của Cụ Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm. Mộ của Cụ
Cao Tằng Tổ Khảo Trần Đức Mỹ, nếu từ trên khu mộ của Cụ Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm (Can
nội) đi
xuống chân núi(Chỗ vừa đi lên) theo hướng Tây qua đường thì mộ nằm trong vườn
nhà dân, sát với tảng đá to thì mộ dựa sát vào đấy hiện chưa xây, ngày
30-11-2013 (Tức 28/10 Quý Tỵ) tôi và ông Nguyên trưởng tộc đi tìm song không
thấy nữa bây giờ cây cối um tùm, hỏi lại họ hàng thì ông Thủy (Ông là cháu đời thứ 4 của Cụ
Tằng Tổ Trần Cường là em ruột Cụ Tằng Tổ Khảo
Trần Xuân Cẩm của chi họ chúng ta) nói vẫn đến thăm mộ ở đấy khi về quê.
Quê
hương của chúng ta có nhà thờ Đại Tôn, có các phần mộ của Tổ Tiên, từ Cụ Nhất
Đại Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn đến Cụ Đệ Bát Tổ Khảo Trần Khắc Tri, còn nhiều
di tích lịch sử, nhiều việc phải làm như: Phải tôn tạo sửa chữa nhà thờ lớn,
khu mộ của họ ta và các ngôi chưa đến, phải tìm hiểu, sưu tầm vì vậy tất cả
con, cháu, chắt, … đều phải hướng về và đóng góp xây dựng, để duy trì, để bảo
tồn nhà thờ họ, các di sản của Tổ Tiên để lại được trường tồn muôn đời.,.
BIÊN
SOẠN
KS
TRẦN ĐÌNH VIỆT
Trưởng
chi I – Đời thứ 2/10/30
ĐỜI THỨ – 29
ĐỆ NHẤT HIỀN KHẢO
TRẦN ĐÌNH PHÚ
CHI
3
ĐỜI
THỨ – 30
ĐỆ NHỊ TRƯỞNG HỌ
ÔNG TRẦN ĐÌNH VIỆT
CHI – 1
ĐỜI THỨ – 31
ĐỆ TAM TRƯỞNG HỌ
ÔNG TRẦN ĐÌNH QUÂN
CHI – 1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét