Thứ Ba, 20 tháng 6, 2017

GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN - Dòng họ Trần tại xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh

     Tôi đã đăng bài lời tựa của cuốn "Gia phả Đại tộc Trần" , sau đây tôi tóm tắt sơ lược về cuốn gia phả này để mọi người xem. 
      Tôi viết những trang đầu tiên cho cuốn gia phả của mình, bạn đọc cần thì góp ý thêm cho mình xin ý kiến nhé? Cảm ơn!
      Hộp thư: tranviet184@gmail.com



      GIA PHẢ 
    ĐẠI TỘC 
  TRẦN





LỜI GHI NHỚ !
       Công đức Tổ Tôn nghìn năm thịnh!
    Hiếu hiền con cháu vạn đời ngay!  
             Gia tộc Đại Trần chúng ta đã có lịch sử hơn 914 năm hình thành và phát triển, dòng họ - Tổ Tiên chúng ta anh hùng, bất khuất, và đã lưu danh những trang vàng chói lọi nhất trong lịch sử Việt Nam, tôi xin có đôi lời nhắn lại và yêu cầu cùng nhau thực hiện như sau. 
               Tổ Tiên họ Trần chúng ta có lịch sử lâu đời, từ cụ Thủy Tổ Khảo (*) TRẦN QUỐC KINH chúng ta đến nay, dòng họ chúng ta đã đến đời thứ 31, và có hàng triệu các chi nhánh với hàng mấy chục triệu người, Họ Trần chúng ta có mặt trên mọi miền đất nước Việt Nam, gia tộc chúng ta hiện nay còn lưu giữ được rất nhiều nhà thờ họ. Ngoài ra còn có rất nhiều đền thờ, lăng, miếu…, là nơi thờ tự Tổ Tiên của con cháu, của nhân dân thập phương đi về thờ phụng Tổ Tiên tăng tình thân tộc, ấm áp tình người. Những di tích lịch sử, nơi thờ phụng do Tổ Tiên chúng ta, nhân dân ta và con cháu đời này qua đời khác xây dựng, bảo tồn, bảo trì ngày càng to đẹp. Mặc dù gia tộc Đại Trần chúng ta trải qua biết bao biến cố thăng trầm của lịch sử và của thời gian, nhưng vẫn không làm mờ đi cốt cách truyền thống của dòng họ, đây chính là nhờ Tổ Tiên chúng ta và con cháu đời đời luôn trân trọng, giữ gìn “HÀO KHÍ ĐÔNG A” (**), bản sắc văn hóa của Đại Tộc TRẦN chúng ta. Với đất nước ta, gia tộc chúng ta đã sinh ra rất nhiều người con ưu tú trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ Quốc, qua mọi thời đại phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật của đất nước. Đây chính là nhờ phúc ấm của Tổ Tiên, con cháu từ đời này qua đời khác luôn gìn giữ, dựng xây và nỗ lực vươn lên, chúng ta tự hào với truyền thống của dòng tộc, gia tộc, với cội nguồn Tổ Tiên, chúng ta cùng giữ gìn phát huy truyền thống của dân tộc ta, của dòng tộc ĐẠI TRẦN chúng ta. Đây là bổn phận của mỗi người con họ Trần.
               Cuốn “GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN” do tôi biên soạn lần này đã trình bầy cụ thể một dòng họ, một chi họ, một gia đình, và đây là một cuốn lịch sử, cuốn gia phả đầu tiên của một dòng họ, của một chi họ, của một gia đình. Tôi là một kỹ sư kỹ thuật và do tài liệu có hạn nên lần biên soạn này sẽ có sơ sót, tôi mong rằng sau này nếu ai biên soạn, sao, hay lập lại sẽ bổ sung đầy đủ hơn. Mọi chi họ khi viết gia phả cần làm theo cách mã số như cuốn gia phả này, khi đọc cần ghi nhớ chi họ mình là Đại chi mấy, Chi mấy, có tất cả 3 Đại chi và có 9 chi đời thứ 4/24. Tôi xin nêu những yêu cầu mà mọi chi họ, gia đình cần phải làm như sau:
         1)-   Tôi biên soạn lần này đã in lần thứ nhất năm 2012 (***) ra 2 bản gốc đã tặng cho các chi gồm: Ông Trần Đình Nguyên - Trưởng tộc đời thứ 10/30 chi 1, ông thuộc chi 1, đời thứ 28 và Cụ Trần Khắc Thêm đời thứ 9/29, cụ chi 4 trong đời thứ 8/28; Lần thứ 2 tôi in thêm 4 quyển gốc nữa gồm: Hai cuốn tặng cho con trưởng của tôi là Trần Đình Quân và con thứ Trần Đình Khánh An (Đời thứ 11/31); Tặng cho ông Trần Đình Phúc chi 2, đời thứ 10/30, (Về ông ghi trong đời thứ 9/29) và tặng cho cụ Trần Nhật Độ, Chi 1, đời thứ 9/29 (Cụ thuộc Chi 2, đời thứ 5/25 Thủy Tổ Khảo Trần Đình Cử). Từ 6 bản gốc này, các gia đình nào chưa có 
------------------------------------------------------------------------------------------- 
       (*)- Chữ “Khảo” chỉ theo dòng trực hệ sinh ra sau. Ví dụ cha tôi mất tôi gọi là Hiền Khảo.
   (**)- Chữ ĐÔNG A được triết tự từ chữ Trần () ra hai chữ Đông và chữ A mà thành.
(***)- Tôi đã in 2 quyển này trước và lấy tên là “ĐẠI TỘC TRẦN TÂN PHẢ”và đã gửi đến tay cụ Thêm (Tháng 7-2013) và ông Nguyên (Tháng 11+-2013). – Còn 4 quyển in đợt 2 năm 2015.

         gia phả cần phải foto, hay sao lại, hay lập lại cho gia đình mình trên cơ sở lấy sáu quyển này làm gốc. Dòng trưởng lập gia phả của dòng trưởng, dòng thứ lập gia phả của dòng thứ, mọi chi họ cần có cách viết, cách đánh số thứ tự (*), cách trình bầy như 6 cuốn gia phả này để thống nhất chung để số thứ tự từng người trong tất cả các cuốn gia phả trong họ khi đọc gia phả mọi người đều hiểu được là như nhau. Nếu foto thì ghi chú ngày tháng năm, từ quyển gốc nào, bao nhiêu quyển, cho ai để cả họ biết số lượng gia phả trong họ, nếu chuyển sang quyển khác cần viết ghi chú vào phần cuối cùng của quyển cũ, và đầu quyển mới.
          2)-  Không được tự ý sửa chữa, gạch, xóa nội dung mà chỉ đánh dấu vị trí (Kể cả bản foto), muốn thêm hay sửa thì ghi xuống ở cuối mỗi đời, hay trang sau, hay đính kèm thêm một tờ khác, nếu sao chép và lập mới thì mới thay đổi, chỉnh sửa nội dung biên soạn lại. Sáu quyển này là lần in thứ nhất, các quyển làm lần sau thì ghi là tái bản lần thứ hai có bổ sung, lần thứ ba … và phải ký, ghi dõ tên người đứng ra in, số lượng quyển trước khi giao.
        3)- Ngày nay mỗi gia đình chỉ sinh một hay hai con, vì vậy bậc cha mẹ phải có trách nhiệm truyền dậy cho các con, các cháu không được để gia đình mình thất truyền. Tất cả các con, cháu, chắt phải học cách tính toán trong kế hoạch hóa gia đình và xây dựng gia đình hạnh phúc, thịnh vượng. Mọi gia đình, mỗi đời phải có trách nhiệm ghi chép bổ sung liên tục vào gia phả và tìm hiểu, báo cho mọi người trong họ biết để cùng bổ sung thêm.
         4)- Mỗi gia đình phải là một pháo đài che chắn cho con cháu, là điểm tựa vững chắc cho con cháu tu thân, tích đức và vươn ra ngoài xã hội. Mỗi gia đình phải giáo dục truyền thống của Tổ Tiên, của dòng họ, một dòng họ anh hùng nhất lịch sử Việt Nam và thế giới. Một dòng họ có “HÀO KHÍ ĐÔNG A” toả sáng ngời.
         5)- Gia phả là lịch sử của một gia tộc, một dòng họ, một gia đình vì vậy không được coi cuốn gia phả như các sách phổ thông khác. Mọi nhà phải bảo quản, cất giữ ở nơi trang trọng (Như nơi thờ cúng,…). Cần phải trang nghiêm, trân trọng khi mang ra đọc hay ghi chép bổ sung hay ghi lại công đức của mọi người, nếu gia đình nào mà thất truyền, nếu có quyển gia phả thì khi về già phải gửi lại gia phả cho tộc trưởng hay nhà anh em họ hàng có con trai để bảo quản giữ gìn và để trao cho những nhà chưa có gia phả.
              Gia phả là gia bảo, là lịch sử của gia tộc, của dòng họ, của gia đình, có gia phả trong nhà là có điểm tựa tinh thần cho con cháu, là niềm tự hào của con cháu, của một dòng họ. Một dòng họ, một chi họ, một gia đình đông vui hạnh phúc, nội thất không thiếu gì nhưng nếu chưa có gia phả thì chưa đủ điều kiện sang và trọng.
 -  MAIL: tranviet184@gmail.com
 -  SỐ 184 ĐƯỜNG LÁNG, P. THỊNH QUANG, Q. ĐỐNG ĐA, TP. HÀ NỘI
 -  ĐT: 0902587395 
                                                                      Hà nội, ngày 29 tháng 6 năm 2015
                                                                                     BIÊN SOẠN          
                                                                     
                                                                            KS TRẦN ĐÌNH VIỆT
                                                                       Trưởng chi I – Đời thứ 2/10/30

-------------------------------------------------------------------------------------------
    (*)- Cách đánh số thứ tự ví dụ tôi là: 30-5-1 tức là: Số 30 tôi là đời thứ 30; Số 5 là cha tôi là người con trai thứ 5 trong gia đình ông nội tôi; Số 1 tôi là con trai đầu của bố tôi.






LỜI TỰA
                     Cây có gốc mới nẩy chồi xanh ngọn,  
                     Nước có nguồn mới bể cả sông sâu.
            Người ta sinh ra đều có nguồn gốc, có Tổ Tiên, có các cụ, có ông bà, cha mẹ, anh chị em, con, cháu …. Đó là nguồn gốc, là dòng giống, là huyết thống, cứ như vậy kéo dài vô tận theo quy luật phát triển của xã hội. Dòng họ TRẦN cũng như các dòng họ khác trên đất nước ta được thừa hưởng một kho tàng lịch sử đồ sộ, những biến cố của xã hội, của dòng họ đã được ghi lại trong lịch sử, với dòng họ còn được lưu lại trong gia phả của các dòng họ, các văn bia trong nhân gian, đây chính là một kho tư liệu vô tận chưa thể tìm hiểu khám phá hết được. Họ Trần chúng ta chưa có cuốn gia phả đầy đủ nào nên tôi lập cuốn “GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN” này gồm có bốn phần, mỗi phần là một giai đoạn lịch sử của dòng họ, ghi lại cụ thể một dòng trực hệ của một chi họ, một gia đình. Tôi lược qua quá trình biên soạn cuốn gia phả của họ Trần chúng ta ở xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh và ngày nay ở tại số 184 đường Láng, phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, TP Hà Nội như sau.
             Tôi bắt đầu tìm hiểu, ghi chép các tư liệu về họ từ năm 1996 cho tới nay ghi ra bản nháp, sau đó đánh máy lưu vào máy tính bổ xung dần hàng năm, cuốn gia phả này tôi biên soạn là cuốn gia phả đầy đủ đầu tiên của dòng họ chúng ta, do tài liệu sưu tầm có hạn nên việc tổng hợp còn hạn chế, tôi mong rằng mọi người biên soạn lần sau sẽ hoàn thiện hơn.
             Họ TRẦN của chúng ta được sử sách cũng như các cuốn gia phả, bút tích ghi lại có Cụ Thủy Tổ Khảo của dòng họ là Cụ TRẦN QUỐC KINH, Cụ sinh vào khoảng năm 1103, là Cụ Thủy Tổ Khảo đầu tiên của dòng họ chúng ta, một dòng họ anh hùng đã ba lần đánh tan quân Nguyên Mông, quân Nguyên Mông đã chinh phục toàn thế giới tới châu Âu. Dòng họ ta cũng có những thăng trầm theo thời gian, Tổ Tiên ta đã để lại những trang vàng chói lọi trong kho tàng lịch sử Việt Nam, trên các tấm bia đá, các thần tích, thần sắc, các sắc phong của các đời vua về sau, ngoài ra còn cả một kho các gia phả của các chi họ trong nhân gian truyền lại. Tôi tóm tắt lược qua về các cuốn gia phả là tài liệu tham khảo chính của tôi trong quá trình biên soạn gia phả như sau:
         -   Về cuốn “TRẦN TỘC TÂN PHẢ” được biên soạn rất công phu, tôi xin lược qua như sau: Theo biến cố của lịch sử cũng như biến cố của dòng họ ta, có những giai đoạn bị đứt quãng, không ghi chép lại được gia phổ, trước sự thực này, trong họ TRẦN ta có nhiều cụ tâm huyết đã không quản khó khăn, thiếu thốn, đã bỏ ra công sức và tiền của đi tìm và chắp nối gia phả họ Trần ta. Họ TRẦN ta ở vùng Thanh - Nghệ ­- Tĩnh bị thất lạc gốc Tổ, không biết gốc Tổ ta từ đâu, sau hơn hai chục năm đi tìm kiếm, chắp nối các chi họ Trần lại, từ Sơn Đông, Lập Thạch, tới Tống Sơn, Thanh Hóa rồi đến Yên Thành, Nghệ An với vô vàn gian nan, vất vả. Các cụ lão tộc nhiệt tâm với Tổ Tiên, có trách nhiệm với con cháu tiêu biểu đi tiên phong là cụ Trần Thanh San, cụ Trần Miễn, cụ Trần Đức Đam, rồi cụ Trần Thăng Long, cụ Trần Hàm, cụ Trần Võ, cụ Trần Văn Tiệp, cụ Trần Văn Thành, cụ Trần Hỉ, cụ Trần Thiền, cụ Trần Vũ Hoàn, cụ Trần Khuông, Trần Linh và gần đây là các ông Trần Hiên, Trần Đẩu, Trần Viết Kỳ trong Hội đồng gia tộc Trần Nguyên Hãn  tiếp tục tìm kiếm chắp nối. Sau nhiều năm tìm kiếm sưu tầm được rất nhiều tài liệu sử phả, cụ Trần Thanh San đã biên soạn lại và lập ra cuốn “TRẦN TỘC TÂN PHẢ”, qua cuốn gia phả này, dòng họ Trần ta đã được chắp nối đầy đủ từ đời thứ nhất tới đời thứ 20, từ Thủy Tổ Khảo TRẦN QUỐC KINH đến Thủy Tổ Khảo TRẦN THÁI TÔNG, đến Thủy Tổ Khảo TRẦN NGUYÊN HÃN, rồi Thủy Tổ Khảo TRẦN ĐĂNG CHẤT, từ cuốn gia phả này là tài liệu chính để tôi biên soạn phần I và II của cuốn “GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN”.
             Nhân dịp họp họ Trần xã Sơn Thịnh chúng ta ở Hà Nội đầu xuân 2013, cụ Đào Trần Quang Cát - Thiếu Tướng, trưởng ban liên lạc dòng họ Trần Nguyên Hãn(*) có bài viết về “Thân thế, sự nghiệp đức Tả tướng Quốc Trần Nguyên Hãn” và thông tin chính thức về các dòng họ Trần chúng ta.
        -    Về cuốn“GIA PHỔ HỌ TRẦN”của chi họ chúng ta được Cụ Trần Đình Đắc – Cụ thuộc chi 3 đời thứ 27 Cụ Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm, chi 2 đời thứ 28, là chi 1 đời thứ 9/29(**) đã sao và lập lại năm 1971, trong đó từ đời Cụ Thủy Tổ Khảo thứ 14 Trần Thiện Tính đến đời thứ 4/24 Cao Cao Cao Tằng Tổ Khảo Trần Bá Phấn do cha của cụ Đắc là Tổ Trần Khắc Hoành đời thứ 8/28 (Tôi gọi là ông trẻ) đã sao trích từ gia phả họ Trần ở làng Diệu Ốc, xã Giai Lạc, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An tháng 8-1933  và cụ đã lập thêm bốn đời, từ đời thứ 21 đến đời thứ 4/24 ở làng Thịnh Xá. Từ đời thứ 5/25 do Cụ Trần Đình Đắc lập theo gia phả của chi họ nhà cụ. Đây là cuốn gia phả chính để tôi biên soạn phần III, nếu các thông tin giữa các cuốn gia phả trong họ khác nhau thì tôi lấy theo thông tin của cuốn này, các thông tin ở các cuốn khác chỉ để tham khảo.
        -    Về cuốn“GIA PHẢ, GIA TỘC HỌ TRẦN”ghi lại cả họ Trần ta ở xã Sơn Thịnh sau hơn 10 năm đã hoàn thành, họ Trần xã Sơn Thịnh ở Hà Nội cùng ban biên soạn gồm các cụ: 1. Cụ Cố Trần Đình Dục - Ủy viên; 2. Cụ Trần Hoành Đại tá - Trưởng ban; 3. Cụ Trần Nhật Độ - Đại tá - Nguyên Trưởng ban Liên lạc họ Trần ở Hà Nội - Phó ban; 4. Cụ Trần Xuân Kiều - Đại tá - Ủy viên; 5. Ông Trần Thanh Tịnh - Nguyên Giám đốc - Trưởng ban Liên lạc họ Trần ở Hà Nội - ủy viên. Hoàn thành bản nháp xong, Cụ Kiều đánh máy thành 6 phần tôi ghép các phần lại và sưu tầm thêm hình ảnh đưa vào, sau đó tôi đã in ra 3 bản nháp gửi mọi người trong họ hiệu đính bổ xung thêm năm 2012, sau khi tôi bổ xung thêm Cụ Trần Xuân Kiều và tôi kiểm tra hiệu đính lại, tôi đưa đi in chính thức 10 bản năm 2013. Từ thông tin của cuốn này góp phần mở rộng các thế hệ con cháu của các đời trong phần III.
              Qua các cuốn gia phả Tôi tìm hiểu, Cụ Thủy Tổ họ TRẦN đều được ghi lại từ đời Thủy Tổ Khảo TRẦN QUỐC KINH, từ Thủy Tổ Khảo Trần Quốc Kinh trở về trước là sự tích, chưa có cuốn gia phả nào ghi lại mà chỉ tìm hiểu qua các thông tin của các nhà nghiên cứu lịch sử. Vì vậy tôi lập cuốn gia phả này cụ Thủy Tổ Khảo đầu tiên của họ TRẦN chúng ta là Cụ Thủy Tổ Khảo TRẦN QUỐC KINH, từ cụ Thủy Tổ Khảo năm 1103 đến nay ngày 29-6-2017, dòng họ TRẦN ta có 31 đời, trong chi họ là 32 đời.        
          Từ những dữ liệu chính của ba cuốn:“TRẦN TỘC TÂN PHẢ”,“GIA PHỔ HỌ TRẦN”,“GIA PHẢ, GIA TỘC HỌ TRẦN”, tôi đã sao, trích dẫn, biên soạn lại và bổ xung thêm từ gốc Thủy Tổ Khảo đời thứ nhất đến đời 
  -----------------------------------------------------------------------------------------
   (*)-  Cụ Đào Trần Quang Cát có gốc thuộc một nhành của đời sau Tổ Trần Nguyên Hãn đã đổi sang họ Đào hiện ở Việt Trì tỉnh Phú Thọ.
 (**)-  Cụ Đắc cùng chi họ đời 27 của chúng ta, còn ghi ví dụ là đời thứ 9/29 trong đó: Cặp số trước là 9 chỉ cụ là đời thứ 9 ở xã Sơn Thịnh và cặp số 29 cụ này là đời thứ 29 của dòng họ Trần chúng ta.


        thứ 27 (Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm). Từ đời thứ 28 (Tổ Khảo) đến nay do tôi biên soạn theo lý lịch và lời kể của Hiền Khảo lập thành cuốn “GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN”.
            Ngoài ra tôi còn tham khảo cuốn “GIA PHẢ HỌ TRẦN”của cụ Trần Đình Khoa (Cụ thuộc chi 2 đời 26 cụ Trần Văn Nhạ), cuốn gia phả của cụ Trần Văn Uyên (Cụ thuộc chi 2 đời 27 Cụ Trần Bá Đính), các dữ liệu lịch sử, các cuốn sách, tạp chí, các thông tin về các cuộc hội thảo khoa học lịch sử, thông tin của các nhà nghiên cứu lịch sử về đời nhà Trần, các ảnh tự chụp, chụp lại và hình ảnh trên mạng xã hội …. Do các tài liệu, dữ liệu lệch nhau hay chưa phù hợp về thời gian, không gian nên tôi phải hiệu đính lại, tính cho phù hợp, đảm bảo tính liên tục của dòng họ và đúng theo dòng lịch sử dân tộc Việt nam. Với tâm huyết của mình phải lập cuốn gia phả đầy đủ nhất, hoàn chỉnh nhất, do tôi là kỹ sư kỹ thuật hàng không, với khả năng của mình cũng như tài liệu có hạn nên không tránh khỏi thiếu sót. Tôi mong rằng các cụ, các ông, các cháu, sẽ tiếp tục góp ý bổ sung và lập cho chi họ mình một cuốn gia phả hoàn chỉnh nhất, đầy đủ nhất.
           Tiếp nối truyền thống của Tổ Tiên, của các cụ cao niên đã làm, tôi lập xong cuốn “GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN ” này và đã in ra làm 6 cuốn gốc tặng cho các chi như sau:
        -    Chi 3 đời thứ 1/9/29(*) của Hiền Khảo Trần Đình Phú là đời thứ nhất ở Hà nội, cụ có ba người con trai, và có ba cháu trai nên tôi làm ba cuốn: Tôi là con trưởng đời thứ 2/10/30 có 2 con trai là: Một cuốn (quyển 1/6) cho con trưởng - Cháu đích tôn đời thứ 31 Trần Đình Quân và một cuốn (quyển 2/6) cho con trai thứ Trần Đình Khánh An đời thứ 3/11/31;
        -   Một cuốn (quyển 3/6) cho ông Trần Đình Phúc - chi 2, đời thứ 2/10/30 có một con trai là Trần Tuấn Anh đời thứ 3/11/31;
        -   Tôi biên soạn hộ và in tặng (quyển 4/6) cho cụ Trần Nhật Độ (Cụ chung một Kỵ với Hiền Khảo Cụ Cao Cao Tằng Tổ Khảo Trần Đình Cử đời thứ 25) - Thuộc chi 2 đời thứ 26, chi 1 đời thứ 27, chi 2 đời thứ 28, chi 1 đời thứ 9/29;
        -   Ngoài ra tôi đã in tặng năm 2012 (quyển 5/6) cho ông Trần Đình Nguyên (Ông là anh con Bá Khảo)  – Thuộc chi 1, đời thứ 8/28, chi 1 đời thứ 29, là chi 1 đời thứ 10/30 trưởng tộc ở quê và tặng (quyển 6/6) Cụ Trần Khắc Thêm là chú ruột thuộc chi 1 đời thứ 8/28, là chi 4 đời thứ 9/29, hiện sống ở Ấp 1, xã Hòa Hội, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Sau khi in, sang năm 2016 trở đi tôi tiếp tục bổ xung vào gia phả cho đầy đủ để in lần 3 sau này.   
        -  Năm 2016 tôi đã gửi cho ông Trần Danh Lâm con cụ Thêm và cháu Hùng con ông Nguyên phần III gia phả dòng họ Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn qua thư điện tử để lưu.
        -  Tháng 12-2016 tôi đã đưa cho ông Bình con cụ Trần Đông ở Tân Thành, Sông Công, Thái Nguyên quyển nháp khi lập cuốn “Gia phả, gia tộc họ Trần” và biên soạn tóm tắt phần gia phả cho nhà ông Bình ông là chi 2 đời thứ 10/30, thuộc Đại chi 3 chi 9: Cụ Tam đại Trần Nhật Chiếu, cụ Tứ Đại Trần Đình Bảo).
       -  Tháng 4-2017 tôi gửi qua email phần III gia phả dòng họ cho ông Trần Bình đời thứ 10/30 hiện nay ở xóm Ninh Xá, xã Sơn Ninh, (Ông là anh con Bá Khảo) và gửi qua email cho cháu Toàn là con trai ông Bình phần III cuốn gia phả này và cuốn “Gia phả, gia tộc họ Trần”của họ Trần chúng ta ở xã Sơn Thịnh.  
------------------------------------------------------------------------------------------
       (*)-  Nếu ghi ba cặp số ví dụ là: đời thứ 1/9/29 là đánh số đời của vị đó, trong đó: Cặp số đầu là số 1 là đời thứ nhất ở Hà Nội, cặp thứ 2 là số 9 - đời thứ 9 ở Sơn Thịnh và cặp số 29 - đời thứ 29 của họ Trần Việt Nam.


            Với tinh thần hướng về cội nguồn tôi mong sao từ 6 cuốn “GIA PHẢ ĐẠI TỘC TRẦN”  này về sau không một chi họ nào, một gia đình nào là không có gia phả, không chi họ nào để ngắt quãng hay mất gốc Tổ, có cuốn gia phả trong nhà là giữ gìn truyền thống tốt đẹp của Tổ Tiên, có cuốn gia phả là đã tiếp thêm niềm tin cho con cháu mạnh mẽ hơn, hùng cường hơn, khi có gia phả phải được bổ sung liên tục, phải bảo quản giữ gìn, cất giữ ở nơi trang trọng như nơi thờ cúng ... Khi gia đình nào không có con trai thì gửi lại cho anh em, họ hàng có con trai để cất giữ, bảo quản và trao lại cho những gia đình chưa có gia phả. Tất cả hậu duệ con cháu chúng ta phải hướng về Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn đời thứ 1/21 ở xã Sơn Thịnh và Hiền Khảo cụ Trần Đình Phú đời thứ 1/9/29 ở Hà Nội. Tôi hy vọng đây là tài liệu sử phả, gia phả cho tất cả con cháu hậu duệ của họ Trần, của Thủy Tổ Khảo Trần Thái Tông, Thủy Tổ Khảo Trần Quang Khải, Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn, Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn, Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm và Hiền Khảo Trần Đình Phú.
              Chúng ta là con cháu họ TRẦN, chúng ta luôn luôn tự hào với truyền thống anh hùng, bất khuất của Tổ Tiên chúng ta, chúng ta trân trọng và biết ơn Tổ Tiên chúng ta, các cụ lão tộc trong dòng họ đã dày công biên soạn và lập những cuốn gia phả để lại cho thế hệ sau. Tôi tin rằng từ nay mọi gia đình họ Trần chúng ta đều có cuốn gia phả trong nhà và luôn được ghi chép bổ sung đầy đủ. Con cháu họ TRẦN chúng ta sẽ phát huy “HÀO KHÍ ĐÔNG A” cùng thương yêu, đoàn kết, gắn bó, nhân ái, phấn đấu cùng làm rạng danh dòng họ TRẦN đã có lịch sử hào hùng, có gần nghìn năm văn hiến. Cụ Trần Nhật Độ đã tặng câu đối:
                 “TRẦN GIA PHÚC ẤM MUÔN ĐỜI THỊNH
                   HÀO KHÍ ĐÔNG A VẠN THẾ TRUYỀN”(*)

                                                                 Hà Nội, ngày 29 tháng 6 năm 2015
                                                                                BIÊN SOẠN
                                                                                   
                                                                          KS TRẦN ĐÌNH VIỆT
                                                                     Trưởng chi 1 - Đời thứ 2/10/30
     --------------------------------------------------------------------------------------
 (*)-  Đôi câu đối này ban đầu cụ Trần Nhật Độ ghi là “TRẦN GIA PHÚC ẤM MUÔN ĐỜI THỊNH – HÀO KHÍ ĐÔNG A VẠN NIÊN TRUYỀN”

      






PHẦN THỨ NHẤT




     LỊCH SỬ DÒNG HỌ


      THỦY TỔ KHẢO

  TRẦN QUỐC KINH










      LỜI GIỚI THIỆU

         LỊCH SỬ VÀ DÒNG HỌ TRẦN

 Họ TRẦN ta xa xưa có nguồn gốc thuộc các tộc người Bách Việt (Gồm các tộc người Mân Việt; Lạc Việt; Đông Việt; Nam Việt; Âu Việt …) sống ở vùng đất Mân, thuộc nhóm tộc người Mân Việt (Ngày nay là vùng Phúc Kiến – Trung Quốc). Họ Trần chúng ta có lịch sử lâu đời, một dòng họ có tinh thần thượng võ, một dòng họ anh hùng, vẻ vang nhất trong lịch sử nước ta cho đến ngày nay.   
 Năm 227 trước Công Nguyên(*), Phương Chính hầu TRẦN TỰ MINH người tộc Mân Việt thuộc dòng Bách Việt, làm quan cho Triệu Đà đã di cư xuống phía nam do mâu thuẫn giữa các tộc người Bách Việt với người Hán (Vì nhà Tần xâm chiếm đất của người Bách Việt). Người Bách Việt di cư xuống phía nam, Thủy Tổ Trần Tự Minh theo dòng người Bách Việt di cư xuống vùng Lạc Việt và được vua Hùng AN DƯƠNG VƯƠNG tin dùng và trở thành tướng tài ba cùng tướng Cao Lỗ giúp vua chống lại Triệu Đà. Sau biến cố của lịch sử, Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc, Tổ Trần Tự Minh lui về sống ẩn dật ở đất Kinh Bắc. Qua khoảng 700 năm ở đất Kinh Bắc, dòng đích tôn đến đời Tổ Trần Tự Viễn (Năm 582- 637) đã nổi danh kiệt xuất xứ Giao Châu có võ công cao cường và cũng là đệ tử của Phật phái Thiền Tông được nhân dân sùng kính. Cho đến đời Tổ Trần Tự An (Năm 1010-1077) đặt tên cho phái võ là “ĐÔNG A”(**) để phân biệt với các phái võ khác (Là phái Lĩnh Nam và phái Hoa Sơn, phái võ Đông A và Hoa Sơn cùng xuất phát ở đất Kinh Bắc). Về sau, con của Tổ Trần Tự An là Tổ Trần Tự Mai đã nghe theo lời cha dặn nên chuyển võ đường Đông A về Đông Triều – Chí Linh nay là Quảng Ninh và Hải Dương.
             Khoảng thế kỷ XII đời Thủy Tổ Khảo TRẦN QUỐC KINH (Hay Trần Tự Kinh sinh khoảng năm 1103) đã di cư xuống phía nam vùng đồng bằng sông Nhị Hà và dừng chân ở hương Tức Mạc, phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Sơn. Lúc đầu cùng với hai con trai là TRẦN (TỰ) HẤP và TRẦN TỰ DUY có võ công cao cường, đi khẩn hoang và chiêu dân phát triển ngày càng phồn thịnh lớn mạnh. Nhân một hôm Tổ Trần Tự Hấp phát hiện, vớt và cứu chữa được thầy địa lý bị đóng bè thả trôi sông, nên thầy địa lý để tạ ơn đã chỉ cho Tổ Trần Tự Hấp mảnh đất ở Thái Đường có linh khí hội tụ, nếu đặt mộ Tổ vào đó ắt có ngày phát đế vương. Tổ Trần Tự Hấp nghe theo, xin cha đi về quê cũ Kinh Bắc chuyển mộ cụ Tổ là TRẦN TỰ MAI về đặt ở Thái Đường để được phúc ấm và chuyển hẳn gia quyến về đó sinh sống. Sau khi Tổ Trần Quốc Kinh mất phần mộ được đặt ở Thái Đường mà thầy địa lý đã chỉ cho (***), nhờ vậy gia tộc họ TRẦN ngày càng phát đạt, môn phái võ Đông A càng thêm hưng thịnh thu hút nhân tài khắp nơi về tụ họp. Ở đất Thái Đường Tổ Trần Tự Hấp đã sinh ra Trần Lý, Tổ Trần Lý sinh ra Trần Thừa, Trần Tự Khánh và Trần Thị Dung… Người em Tổ Trần Tự Hấp là Trần Tự Duy (****) sống ở đất Lưu Xá bên cạnh vì mâu thuẫn sâu sắc với họ Lưu đã tàn sát nhiều nên hao tổn âm khí chỉ sinh được Tổ Trần Thủ Huy,
---------------------------------------------------------------------------------------
(*);(****)- Tư liệu của ông Vũ Ngọc Tiến - Về gia phả họ Trần Định Nhân - Đời 27 ở Nhạc Dương, bên hồ Động Đình, Hồ Nam, Trung Quốc - Dòng họ Trần Ích Tắc đời thứ 6, trong “Trần Tộc Tân Phả” trang 17 thì viết có khác nhau. - Sau này cần tìm hiểu và hiệu chỉnh lại.
(**)-  Chữ “ĐÔNG A” được triết tự từ chữ Trần () ra hai chữ Đông và chữ A mà thành.
(***)-  Theo “Trần Tộc Tân Phả” thì phần mộ Thủy Tổ Trần Quốc Kinh ở gần phía nam cầu Nghĩa Trang sông Mã ở đất Thanh Hóa.


       đời Tổ Trần Thủ Huy sinh được Tổ Trần Thẩm và Tổ Trần Thủ Độ thì thất truyền.
              Đầu thế kỷ XIII, cơ đồ Triều Lý đang dần suy yếu, nội chiến xảy ra, năm 1209 vua nghe theo lời phỉnh nịnh của kẻ gian thần đã giết hại công thần Phạm Bình Di, người từng có công đi dẹp loạn, nên bị tướng của Phạm Bỉnh Di là Quách Bốc đem quân đến đánh phá thành Thăng Long trả thù cho chủ tướng của mình. Vua Lý Cao Tông hoảng sợ đem gia quyến chạy lên Tam Nông - Phú Thọ, còn Hoàng tử nhà Lý là Hạo Sảm thì chạy về Hải Ấp làng Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lánh nạn. Ở Hải Ấp, Thái tử biết được con gái của Thủy Tổ Khảo Trần Lý là Trần Thị Dung rất xinh đẹp, Hoàng tử Sảm bèn cậy Tổ Tô Trung Từ (Con trai Đức Tổ Thái Úy Tô Hiến Thành) là em vợ của Thủy Tổ Khảo Trần Lý làm mai mối để cưới Tổ Trần Thị Dung. Khi đã cưới được Tổ Trần Thị Dung, Hoàng tử Sảm liền phong cho Thủy Tổ Khảo Trần Tự Lý tước Minh Tự, Tổ Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ, bắt đầu từ đây (Năm Kỷ Tỵ-1209), giđình Thủy Tổ Khảo Trần Lý bắt đầu tham gia chính sự. Năm Canh Ngọ (1210), Thủy Tổ Khảo Trần Lý đã cùng các người con, cháu của mình chiêu tập hương binh đem đi đánh dẹp loạn Quách Bốc. Tháng 3 năm ấy, Thủy Tổ Khảo Trần Tự Lý đã chết trong trận chiến đấu này. Người con thứ của Thủy Tổ Khảo Trần Lý là Tổ Trần Tự Khánh thay cha cầm quân giúp Hoàng tử Sảm khôi phục Kinh thành, rồi lên Tam Nông, Phú Thọ rước vua Lý Cao Tông về cung. Năm sau (1211) vua Lý Cao Tông qua đời, Lý Hạo Sảm lên ngôi thay Vua Cha, lấy hiệu là Lý Huệ Tông và phong cho Tổ Trần Tự Khánh làm Thuận Bá Lưu, qua năm sau nữa (1212) lại tiếp phong cho Tổ Trần Tự Khánh làm Chương Thành Hầu. Tháng chạp năm Bính Tý (1216) anh trai của Tổ Trần Tự Khánh là Thủy Tổ Khảo Trần Thừa được Triều đình nhà Lý phong làm Nội Thị Phán Thủ. Tháng Chạp năm Quý Mùi (1223) Tổ Trần Tự Khánh qua đời, được Vua nhà Lý truy phong “Kiến Quốc Đại Vương” và phong cho Thủy Tổ Khảo Trần Thừa làm “Phụ Quốc Thái úy”. Năm sau, năm Giáp Thân (1224) Vua Lý Huệ Tông phong Công chúa Lý Chiêu Hoàng làm Thái tử, giao cho người em họ của Hoàng hậu Trần Thị Dung là Tổ Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ, cầm đầu tất cả quân cấm vệ của triều đình, về trật tự thứ bậc, chức quan đó chưa phải một chức quan có hàm tước cao nhất, nhưng trong thực tế thời loạn lúc bấy giờ, đó là chức có quyền uy mạnh mẻ hơn cả. Thế lực của nhà Trần ngày càng lớn, lấn át tất cả quan lại trong triều, cho đến khi Thủy Tổ Khảo Trần Cảnh kết duyên cùng với vua bà Lý Chiêu Hoàng, đến ngày 01-12 năm Ất Dậu (10-01-1226), Vua Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, Vua cởi bỏ áo ngự và mời (Thủy Tổ Khảo TRẦN CẢNH) chồng mình lên ngôi Hoàng Đế. Đến ngày 12/12 Ất Dậu nhận thiền vị của Chiêu Hoàng, lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung, lấy miếu hiệu Trần Thái Tông. Thủy Tổ Khảo Trần Thừa thân phụ của Thủy Tổ Khảo Trần Cảnh được Triều đình giao cho trọng trách điều khiển mọi công việc triều chính, vì Vua Trần Thái Tông lúc bấy giờ mới 8 tuổi. Tháng 10 năm 1226, Triều đình nhà Trần đã đặt lễ tôn Thủy Tổ Khảo Trần Thừa làm Thượng Hoàng và bà chánh thất của Thủy Tổ Khảo Trần Thừa là Thủy Tổ Tỉ Lê Thuận Thiên làm Quốc Thánh Hoàng hậu. Thủy Tổ Khảo Trần Cảnh lên làm vua và các đời vua khác truy phong các cụ Thủy Tổ Khảo: Trần Quốc Kinh (1103-1190?) là Mục Tổ Hoàng Đế, Trần Tự Hấp(1132-1210?) là Ninh Tổ Hoàng Đế, Trần Lý(1151-1210?) là Nguyên Tổ Hoàng Đế, Trần Thừa(1183-1234) là Chí Hiếu Hoàng Đế, miếu hiệu Thái Tổ.
              Triều Đại nhà Trần là triều đại phong kiến hùng mạnh nhất trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Trần Thái Tông lên ngôi năm 1226 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Lý và chấm dứt khi vua Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi bị ép thoái vị vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý Ly tức Lê Quý Ly, tổng cộng là 175 năm. Đây là triều đại có võ công hiển hách nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, với ba lần đánh thắng các cuộc xâm lược của quân Mông Cổ cũng như triều     đại nhà Nguyên Mông vào các năm 1258, 1285, và 1288. Một đội quân xâm lược bất khả chiến bại lúc bấy giờ, vó ngựa của họ rượt đến đâu cỏ không mọc được đến đó, lần lượt vùng Trung Á, đất Ba Tư đến châu Âu rồi nước Kim, Hạ, Tống, Cao li,… cúi rạp thần phục và do những viên tướng dày dặn kinh nghiệm chiến trường chỉ huy, cùng với nhiều cuộc chiến tranh chinh phạt các quốc gia láng giềng như Ai Lao, Chiêm Thành. Dưới triều Trần, lực lượng quân đội được phát triển mạnh, đánh dẹp các cuộc ni loạn và đương đầu với quân đội các nước lân bang, triều Trần đã sản sinh nhiều nhân vật xuất chúng, đặc biệt là trong lĩnh vực quân sự. Đội ngũ tướng lĩnh nòng cốt lại chính là các tướng trong hoàng tộc nhà Trần. Dù xuất thân quyền quý nhưng các hoàng tử, thân tộc nhà Trần, ngoài lòng yêu nước và bảo vệ quyền lợi dòng tộc, số lớn là những người có thực tài cả văn lẫn võ. Dòng họ Trần ta là dòng họ cai trị duy nhất có nhiều nhân tài nổi bật và nhiều chiến công hiển hách nhất, đặc biệt là thế hệ thứ hai như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật,…, đều là những tên tuổi kiệt xuất trong lịch sử Việt Nam. Đó là chưa kể tới như Trần Thủ Độ, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Toản, .... Tiếp sau là đến Thủy Tổ Khảo Chương túc quốc Thượng hầu - Đại tư đồ Trần Nguyên Đán có công lớn dẹp loạn Dương Nhật Lễ để giữ vững nhà Trần. Cuối thế kỷ 14, lịch sử thay đổi kết thúc một giai đoạn lịch sử hào hùng của dòng họ chúng ta, dòng họ ta tiếp bước sang một giai đoạn khác và kết thúc phần một sang phần 2.  
              BỘ TỘC TRẦN - HỌ TRẦN ta đi vào lịch sử và trường tồn theo lịch sử dân tộc Việt Nam. Họ Trần chúng ta đã làm nên những bản anh hùng ca bất hủ nhất trong lịch sử Việt Nam và thế giới. Một dòng họ có tinh thần thượng võ nhất, một dòng họ có “HÀO KHÍ ĐÔNG A” tỏa sáng chói lọi nhất, huy hoàng nhất trong lịch sử Việt Nam. Do vậy, thế hệ chúng ta ngày nay phải trân trọng, giữ gìn, xây đắp muôn đời nối tiếp truyền thống của Tổ Tiên.
                                                                    Hà Nội, ngày 29 tháng 6 năm 2015
                                                         BIÊN SOẠN
                                                                    
                                                             KS TRẦN ĐÌNH VIỆT
                                                              Trưởng chi 1 - Đời thứ 2/10/30





ĐỜI THỨ NHẤT

        THỦY TỔ KHẢO
        TRẦN QUỐC KINH


         ĐỜI THỨ - 2

                           THỦY TỔ KHẢO
                        TRẦN TỰ HẤP


          ĐỜI THỨ - 3

  THỦY TỔ KHẢO

 TRẦN   LÝ


        ĐỜI THỨ - 4

                            THỦY TỔ KHẢO

TRẦN   THỪA


    ĐỜI THỨ - 5

                                    THỦY TỔ KHẢO
                                 TRẦN   CẢNH


     ĐỜI THỨ - 6

        THỦY TỔ KHẢO

        TRẦN QUANG KHẢI


            ĐỜI THỨ - 7

                             THỦY TỔ KHẢO

  TRẦN ĐẠO TÁI


                  ĐỜI THỨ  - 8 
THỦY TỔ KHẢO

 TRẦN VĂN BÍCH


        ĐỜI THỨ - 9

THỦY TỔ KHẢO

   TRẦN NGUYÊN ĐÁN


          ĐỜI THỨ - 10

 THỦY TỔ KHẢO

  TRẦN NGUYÊN ÁN




LƯỢC BẢN TIỀN BIÊN
GIA PHẢ CỦA THỦY TỔ HỌ TRẦN
   


           Đ
           Ờ
            I
          CÁC BẬC THỦY TỔ KHẢO
        CÁC BẬC 
         THỦY TỔ 
        TỶ

         CÁC CON
         CỦA
        THỦY TỔ

GHI CHÚ

1
       TRẦN QUỐC KINH
      Truy tôn là Mục Tổ Hoàng Đế
      (1103-1190)


        2-1-  Trần Tự Hấp.
        2-2-  Trần Tự Duy.
      Tổ Trần Tự Duy sinh Trần Thủ Huy, Tổ Trần Thủ Huy sinh Trần Thủ Độ. Đến đời Tổ Trần Thủ Độ thì không có con trai.


2
TRẦN
TỰ
 HẤP
        Truy tôn Cung vương Minh Tổ Hoàng Đế
      (1132-1210)
     BÙI
         ANH 
             HOA (*)


        3-1-1  Trần Lý.





3
TRẦN
 LÝ
       Truy tôn Chiêu vương Nguyên Tổ Hoàng Đế
      (1151-1210)
       TÔ PHƯƠNG LAN
       (Cháu gái Đức Tổ
     Tô Hiến Thành)
        4-1-1-  Trần Thừa
        4-1-2- Trần Tự Khánh (An Thành hầu).
        4-1-3- Trần Lễ.
        4-1-4- Trần Thị Dung (1195- 1259) là Hoàng hậu cuối cùng của nhà Lý.
          Di cư về Hải ấp- Tả ngạn sông Luộc, Hưng Hà, Thái Bình. Vẫn làm nghề chài lưới đánh cá



4
       TRẦN THỪA
      Kiểm chuẩn long nhan triều Lý. Thái Thượng Hoàng triều Trần
       (1183-1234)
   THUẬN THIÊN(**)- Thái hậu Theo “Trần Tộc Tân Phả”,

        5-1-1- Trần Liễu- An Sinh vương
        5-1-2- Trần Cảnh (Tên là Trần Bồ)
       5-1-3- Trần Nhật Hạo (Hiệu) - Khâm thiên vương.
        5-1-4- Trần Dy Ái.
        5-1-5- Trần Ba Liệt (***).
        5-1-5- Công chúa Thụy Ba.
    5-1-6- Công Chúa Trần Thị Thiên Thành.

      -------------------------------------------------------------------------------------
           (*) - Sau này cần tìm hiểu lại.
          (**)- Theo“Gia phả, gia tộc họ Trần” tên là Tô Thị Quốc Khánh .
        (***)- Trần Bá Liệt- Hoài Đức vương, ông nội của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản (Ghi theo trong quyển “Hào khí Đông A”- Thông tin họ Trần Việt Nam số 10/2007 do Ban Liên lạc họ Trần Việt Nam ấn hành, lưu hành trong dòng họ).










5




        TRẦN
        CẢNH
         - Húy là Bồ
        - Hiệu là Trần Thái Tông
        - Sinh 16-6-1218.
        - Mất ngày 01/4 Bính Tí (1276)



      Công Chúa
         CHIÊU HOÀNG
         Công Chúa
         LÝ THUẬN THIÊN Hoàng hậu
        - Con của Tổ Tỉ Lý Thuận Thiên:
        6-2-1- Trần Hoảng (1240-1290) - Hiệu là  Trần Thánh Tông.
      6-2-2-Trần Quang Khải-Chiêu Minh vương
        - Con của các cung phi:
        6-2-3- Trần Tỉnh mất sớm.
     6-2-4- Trần Nhật Vĩnh- Chiêu Đạo vương.
     6-2-5- Trần Nhật Duật (1225-1338) Chiêu Văn vương.
        6-2-6- Trần Khánh Dư (?-1339) Nhân Huệ vương.
     6-2-7- Trần Ích Tắc - Chiêu Quốc vương.
       6-2-8- Trần Quang Xương - Chiêu Đại vương.
        6-2-9- Trần Nhật Duy-Vũ Uy vương (**)
        6-2-10- Trần Uất- Minh Hiển vương .
          Các công chúa:
         6-2-11- Thiên Thụy,
         6-2-12- Thiên Thanh,
         6-2-13- Thiên Bảo,
         6-2-14- Thiên Dương,
         6-2-15- Ngoan Thiền,
         6-2-16- An Cơ (Tư).




6



      TRẦN QUANG KHẢI
       - Chiêu Minh Đại vương, Tướng quốc Thái úy, Thượng Tướng đại thần, sinh 1241, mất 03/7 Giáp Ngọ (1294)

TRẦN THỊ PHỤNG DƯƠNG Công Chúa 1244-1291
       (Ứng Thụy) Mất 23/3 Tân Mão.

        7-2-1- Trần Đạo Tái là Văn Túc vương.
        7-2-2- Vũ Túc vương.
        7-2-3- Trần Thị Quỳnh Huy.
        7-2-4- Trần Thị Quỳnh Tư.
        7-2-5- Trần Thị Quỳnh Bảo.
        7-2-6- Trần Thị Quỳnh Thái.
        Theo “TRẦN TỘC TÂN PHẢ” Thủy Tổ Tỉ là Lê Ứng Thụy

7
       TRẦN  ĐẠO
       TÁI
        - Văn Túc vương
       TRẦN THỊ
      BẢO TƯ
      Công chúa
       (Bảo Châu)


        8-1-1 Trần Văn Bích (Con một)

        Tổ Tỉ là con gái của Tinh Quốc vương Trần Quốc Khang


        -------------------------------------------------------------------------------------
         (*)- Tổ Trần Quốc Khang sinh trước nhưng là con của Tổ Trần Liễu.Muốn biết rõ hơn cần đọc thêm.
        (**)- Có tài liệu cho là Trần Duy – Vũ Uy vương là cha của Trần Quốc Toản.



8

TRẦN
VĂN
BÍCH
       - Uy túc công vương, Thái Bảo

     -Công chúa TRẦN
      THỊ THIÊN TRÂN
-       Công chúa
      TRẦN THỊ HUY THÀNH -

     9-1-1- Trần Nguyên Đán.
    9-1-2- Trần Nguyên Uyên.

-      Công chúa Thiên Chân (Mất sớm) là con vua Trần Anh Tông - Công chúa Huy Thành con Tổ Trần Cát Chân.




9
          TRẦN NGUYÊN ĐÁN
         Chương túc quốc Thượng  hầu - Thái sư - Đại tư đồ.
        Sinh 1325, Mất 14/11/1390

        10-1-1- Trần Mộng Dư.
        10-1-2- Trần Thúc Giao.
        10-1-3- Trần Thúc Quỳnh.
        10-1-4- Trần Nguyên Án.
        10-1-5- Trần Thị Thái (Ngọc Diệp)
        10-1-6- Trần Thị Thai (Đài).








       - Sinh Nguyễn Trãi




10

       TRẦN NGUYÊN  ÁN

            LÊ
          THỊ HOÀN

       11-4-1- Con trưởng bị Hồ Quý Ly sát hại cùng với bố là Tổ Trần Nguyên Án.
        11-4-2- Trần Nguyên Hãn.
         Thời gian đầu hai mẹ con ẩn tránh sau đó quay về sống ở làng Quan Tử - Đa Cai nay gọi là vùng Gốm, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc







          PHẦN THỨ – II


DÒNG HỌ

 THỦY TỔ KHẢO

   TRẦN NGUYÊN HÃN




     VÙNG THANH - NGHỆ - TĨNH








LỜI GIỚI THIỆU

Đức Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn là cụ Thủy Tổ của dòng họ chúng ta, từ Sơn Đông, Lập Thạch, Vĩnh Phúc đã trải dài tới các vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh ngày nay, dòng họ đã trải qua nhiều biến cố của lịch sử, từ nhà Hồ cướp ngôi diệt tận đến nỗi hàm oan của Đức Thủy Tổ Trần Nguyên Hãn vì vậy mà cuộc sống của con cháu của Người đã phiêu bạt khắp nơi, mai danh ẩn tích, thay tên đổi họ, …  . Trong khó khăn dòng họ chúng ta càng thể hiện sức sống mãnh liệt, duy trì bảo tồn dòng giống, dòng họ càng phát triển vươn lên, với “Hào khí Đông A” càng tỏa sáng trói.   
Trước nguy cơ thay đổi triều đại, Cụ Thủy Tổ Trần Nguyên Đán không can dán được nhà vua đã lui về ở ẩn, và đưa gia đình người con út là Trần Nguyên Án về Chí Linh, sau đó Thủy Tổ Trần Nguyên Án lại di cư đến tại Quan Tử - Đa Cai, Lập Thạch, Vĩnh Phúc và người vợ người đã sinh hạ Trần Nguyên Hãn là Đức Thủy Tổ Khảo của dòng họ ta. Đến năm 1400 Hồ Quý Ly cướp ngôi vua của cháu ngoại lập lên nhà Hồ, tiếp đến là nhà Minh sang sâm lược, chiếm nước ta, vận nước xoay vần đến Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn, Thủy Tổ Khảo đã theo Lê Lợi đánh tan quân Minh giải phóng đất nước, là công thần khai quốc. Thủy Tổ Khảo được phong tới chức Thái úy, Tả Tướng Quốc Bình Chương Quân Quốc trọng sự khu mật Đại sứ, nhưng sau đó bị hàm oan, một lần nữa dòng họ ta lại mai danh ẩn tích, thay tên đổi họ trong hoàn cảnh khó khăn nhất, dòng họ ta vẫn quật cường vươn lên. Năm Diên Ninh thứ nhất 1454 vua Lê Nhân Tông lên ngôi đã minh oan cho Thủy Tổ Trần Nguyên Hãn là khai quốc công thần của nhà Lê, dòng họ ta mới thoát nạn, những người đã để nguyên họ hay đổi họ ngày nay lập lên dòng họ của Trần Nguyên Hãn của chúng ta. Với chi họ ta cụ Tổ chúng ta sau khi được nhà vua trả tự do vợ con của người đã di cư về Nam Định, người con chính là Trần Pháp Độ sau đó thi đỗ ra làm quan, về già nghỉ làm quan đã di cư cả nhà vào Thanh Hóa, rồi Nghệ An, lập nên dòng họ Trần ở vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh rộng lớn.  
Cụ Thủy Tổ họ Trần chúng ta ở vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh là cụ Pháp ĐCông Thủy Tổ Khảo Trần Pháp Độ (Tự là Trần Quốc Duy)(*), sau khi hưu quan cụ đã không về đất Tổ mà di cư cả gia đình vào Tống Sơn, Thanh Hóa nay là huyện Nga Sơn, Hậu Lộc. Cụ lại để vợ và con thứ 2 là Trần Đạo Tín ở lại đưa hai con trai thứ nhất và 3 vào vào sứ Cồn Dù, Phú Hữu nay là xã Nhân Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, sau một thời gian cụ lại đưa người con thứ nhất là Trần Công Sủng trở ra chùa Sãi, thôn Kim Cốc nay là xã Mai Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Sau khi ổn định Cụ đi vào Nghệ An sống với người con út là Tổ Chân Thường tức là Trần Thiện Tính, Cụ cùng với con cháu của và nhân dân đã mở mang vùng đất Nghệ An, Hà Tĩnh ngày càng
         --------------------------------------------------------------------------------------
(*)-  Tên húy Trần Quốc Duy các sử sách, gia phả thời Lê không ghi, tên chỉ mới tồn tại trong khoảng hơn 100 năm nay, tên Trần Pháp Độ là tên hiệu nhà Phật, khi vào chùa Liên Hoa.

        phồn thịnh, dòng họ có nhiều công hầu khanh tướng như: Thủy Tổ Khảo Phú Quận Công Trần Thọ, Thủy Tổ Khảo Kim tử vinh lộc Trần Văn Ngạn, Thủy Tổ Khảo Đông Quận công Trần Tuấn Kiệt, tiêu biểu là Thủy Tổ Khảo Liêm quận công Trần Đăng Dinh và đến cháu đích tôn Liêm quận công là Diện Dũng Hầu Trần Đăng Chất. Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn là con trai Thủy Tổ Khảo Đăng Chất, là Cụ Thủy Tổ của chi họ chúng ta ở làng Thịnh Xá nay là xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Tính từ Cụ Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn đến nay, dòng họ chúng ta đã đóng góp và tích lũy nhiều công đức cho xã hội, cho Tổ Tiên và ghi danh những trang vàng chói lọi trong lịch sử Việt Nam.
Vì tài liệu thiếu nên về thông tin hai đại chi ở Thanh Hóa không có nhiều mà chủ yếu ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Ngày nay, thông tin đã có song tiếp cận chưa được nhiều, tôi chỉ sơ lược qua mà chủ yếu tìm hiểu về đại chi chúng ta. Ban liên lạc của dòng họ Trần Nguyên Hãn đã có đầy đủ các chi từ mọi miền, các dòng họ đại diện cho ba dòng con của Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn chúng ta đã về họp mặt cùng các dòng khác và dòng đổi họ cùng xây dựng nên dòng họ của Đức Thủy Tổ Trần Nguyên Hãn rộng lớn cả nước từ Bắc - Trung - Nam, trong giai đoạn lịch sử này dòng họ Trần chúng ta có 10 đời, từ Đức Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn đến Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Chất, vùng sinh sống chính là ở tỉnh Nghệ An.
Dòng họ Trần của chúng ta đã làm rạng danh đất nước, được nhân dân các vùng và con cháu các thế hệ lập lên đền thờ như “Đền Trần Tả Tướng” ở Lập Thạch, Vĩnh Phúc, “Đền Pháp Độ” Đan Trung, xã Diễn Thắng, Diễn Châu, Nghệ An … cùng với hàng trăm nhà thờ của các chi, các nhánh. Chúng ta nay và sau cần hướng về cội nguồn của Tổ Tiên xưa, cùng xây đắp nối tiếp muôn đời .,.
                                                                                     BIÊN SOẠN
                                                                                TRẦN ĐÌNH VIỆT




THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA
ĐỨC TẢ TƯỚNG QUỐC TRẦN NGUYÊN HÃN

           Thủy Tổ Khảo Tả Tướng Quốc TRẦN NGUYÊN HÃN là cháu nội Chương Túc Quốc Thượng Hầu Đại tư đồ Trần Nguyên Đán và là cháu đời thứ 6 của Chiêu Minh Đại vương Tướng Quốc Thái Sư Trần Quang Khải, cháu đời thứ 7 Đức Vua Trần Thái Tông, quê gốc ở làng Tức Mạc, lộ Thiên trường (huyện Mỹ Lộc), tỉnh Nam Định. Thủy Tổ Khảo Tả Tướng Quốc sinh ở làng Gốm, nay là làng Quan Tử Đa Kai, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, là người có học thức cao, giỏi binh pháp. Thủy Tổ Khảo theo Lê Thái Tổ (Tức Lê Lợi) khởi nghĩa, có công lớn trong sự nghiệp giải phóng, đánh thắng quân Minh, được phong Đại Tư Đồ, năm 1427, sau chiến thắng và hội thề Đông Quan, được phong là Thái úy, Tả Tướng Quốc, Bình chương Quân quốc trọng sự Khu mật Đại sứ.
           Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn sinh ngày 01 tháng 02 năm Bính Dần (1386) vào đời vua Trần Thuận Tông, là con của Thủy Tổ Khảo Trần Án (Tức Tổ Trần Nguyên Án) và Thủy Tổ Tỉ Lê Thị Hoàn.
           Vào cuối thế kỷ XIV triều đại nhà Trần ngày một suy yếu, thế lực mưu phản Hồ Quý Ly ngày một lộng hành, lũng đoạn triều chính, hãm hại các trung thần và những người không thuộc vây cánh, từng bước dồn ép lấn át quyền lực và đẩy nhà Vua vào thế hoàn toàn bị cô lập, bất lực, buộc lòng phải chấp nhận làm theo những ý đồ phản loạn của chúng. Trước hoàn cảnh đất nước như vậy, Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Đán đã can dán nhà vua nhưng không được nên lui về ở ẩn năm Ất Sửu (1385) tại Côn Sơn (Huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) và để vợ chồng con trai là Trần Án với Lê Thị Hoàn đang mang thai từ Chí Linh lên làng Quan Tử, trang Sơn Đông, phủ Tam Đới, trấn Sơn Tây (Nay là thôn Đa Cai xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) để lánh nạn. Cùng đi còn có vị tướng già được ủy thác để giúp đỡ, năm 1386 Thủy Tổ Tỷ sinh hạ Tổ Trần Nguyên Hãn tại đó, chẳng bao lâu bọn Hồ Quý Ly đã truy tìm đến bắt và sát hại Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Án cùng với người con trai lớn. Thủy Tổ Tỷ Lê Thị Hoàn một mình tần tảo rau cháo nuôi dậy con nhỏ. Tổ Trần Nguyên Hãn lên 7 tuổi đã được mẹ cho đi học và thường được nghe mẹ kể công lao to lớn của Tổ Tiên và mối thù nhà. Với tố chất thông minh lanh lợi lại được vị tướng già tâm phúc kèm cặp giúp đỡ nên tiến bộ rất nhanh, năm 16 tuổi Tổ Trần Nguyên Hãn đã học hết tứ thư ngũ kinh và các sách binh thư, Thủy Tổ thường rủ thanh niên trong làng mở lò vật để rèn luyện sức khỏe và luyện tập võ nghệ chờ khi dùng đến.      
            Tháng hai năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly (Là ông ngoại vua) cướp ngôi vua Trần Thiếu Đế vị vua đời thứ 12 của triều đại nhà Trần, rồi tự xưng vua và lập nên triều đại nhà Hồ, đổi tên nước Đại Việt ra thành nước Đại Ngu (Tức là Vui Vẻ), đồng thời tiếp tục truy bức, hãm hại các tôn thất nhà Trần. Tôn thất nhà Trần là Tổ Trần Ngỗi lui vào vùng Nghệ An Tổ chức chống lại Hồ Quý Ly. Tháng 10 năm 1406, quân nhà Minh kéo sang xâm lược nước ta, triều đình nhà Hồ tan rã và cha con Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt đưa về Trung Quốc. Sau đó nhà Trần tiếp tục chống lại nhà Minh và hai vị vua là Giản Định Đế (Tức Trần Ngỗi) và Trùng Quang Đế (Tức Trần Quý Khoáng) cũng bị thất bại vào năm 1414. Từ đó đất nước Đại Việt lại phải chịu sự thống trị của ngoại bang nhà Minh.
             Năm Mậu Tuất(1418), Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa để chống sự thống trị của nhà Minh. Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn là một trong những người sục sôi ý chí cứu nước cứu dân, với nghĩa nước, thù nhà, Tổ thức thời và dũng cảm đứng lên, biết đặt lợi ích quốc gia lên trên lợi ích gia tộc, đặt lợi ích nhân dân lên trên lợi ích Hoàng gia, Tổ đã cùng với Tổ Nguyễn Trãi (Anh họ) lặn lội vượt đường xa đã đến tụ nghĩa ở Lam Sơn ngay trong những ngày chuẩn bị đầu tiên đầy gian khổ... Từ đó trở đi, Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn được Vua Lê Lợi trọng dụng, đáp lại, Thủy Tổ Trần Nguyên Hãn cũng hết lòng phò tá vị anh hùng dân tộc đất Lam Sơn. Sử cũ viết: “Vua Lê Lợi cũng biết được tài thao lược của Tổ cho nên đã đãi ngộ rất hậu, cho Tổ được dự bàn mưu kín, ban cho Tổ chức Tư Đồ. Tổ theo Vua đánh giặc, lập được rất nhiều công lao”. Sau khi đánh thắng giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi, Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn được Lê Lợi gia phong Tả Tướng Quốc, bình chương quân quốc trọng sự, khu mật đại sứ, được cấp 114 mẫu ruộng. Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn là một trong những vị khai quốc công thần, là một võ tướng cao cấp có biệt tài cầm quân, tên tuổi của Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn gắn liền với 4 sự kiện lớn mà sách “Danh Tướng Việt Nam” tập 2 – Danh tướng Lam Sơn của Nguyễn Khắc Thuần - Nhà xuất bản giáo dục - 1998, và cũng như tại cuộc Hội thảo về thân thế sự nghiệp của Tổ Trần Nguyên Hãn tại huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc năm 1988, Giáo sư sử học Văn Tạo viện sử học Việt Nam đã kết luận:“Ông Trần Nguyên Hãn một người tài giỏi, nên được Vua Lê Lợi giao cho nhiệm vụ chỉ huy đánh những trận quan trọng và đều đã giành được chiến thắng một cách xuất sắc”.

             NHỮNG CHIẾN CÔNG LỚN CỦA TRẦN NGUYÊN HÃN
     I-)  Sự kiện thứ nhất diễn ra vào năm Giáp Thìn (1424) tại vùng đất tương ứng với vùng Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay, bấy giờ trận tấn công vào Nghệ An của nghĩa quân Lam Sơn đang trong hồi quyết liệt. Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn được vua giao làm tướng tiên phong đánh trận mở đầu, diệt đồn Đa Căng (Ngày nay là Bất Căng, xã Thọ Nguyên, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa) để mở đường cho nghĩa quân. Ông đã tiến hành một trận tập kích bất ngờ, giải quyết nhanh gọn chiến trường tạo điều kiện cho nghĩa quân tiến quân thuận lợi, tháng 7 năm Ất Tỵ, cùng một số tướng khác đem hơn 1000 quân cùng một thớt voi, bí mật vòng xuống đánh vào Bố Chính tiêu diệt được đạo quân của tướng nhà Minh là Nhậm Năng, giải phóng hai thành Tân Bình và Thuận Hoá (Các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên ngày nay). Quân dân hai xứ ấy đều quy thuận và Tổ đã thu nạp mấy vạn quân tinh nhuệ bổ xung cho lực lượng của quân khởi nghĩa.
    II-)  Sự kiện thứ hai diễn ra vào cuối năm 1426 (Bính Ngọ), chiến dịch vây thành Đông Quan, với 100 chuyến thuyền xuất phát theo dòng sông Hát (Quảng Oai - Sơn Tây), đêm 23-10, Tổ tiến quân về Đông Bộ Đầu, đánh vào phía bắc thành Đông Quan, cắt đứt cầu nối giữa Hà Nội và Gia Lâm, tiêu diệt đạo quân giữ thành tướng nhà Minh là Vương Thông.   
     III-) Sự kiện thứ ba diễn ra vào năm 1427 (Đinh Mùi), Vua Lê Lợi chủ trương dốc phần lớn lực lượng tinh nhuệ nhất vào trận quyết chiến chiến lược đánh viện binh của quân nhà Minh, một trong những phần việc chuẩn bị quan trọng cho trận đánh lịch sử này là phải hạ thành Xương Giang (Một điểm nằm dọc trên đường quốc lộ từ Hà Nội đi Lạng Sơn ngày nay). Giặc Minh có 10 ngàn quân, do 5 tướng chỉ huy việc canh giữ, chúng lại gom nhiều dân quanh vùng về ở bọc làm bia che đỡ cho chúng, Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn được cử cùng với Lê Sát chỉ huy trận đánh này. Sử cũ chép lại rằng “Ông đến nơi, sai quân đào đường hầm xuyên qua thành và dùng câu liêm, cùng các thứ  giáo mác, nỏ cứng, hỏa pháo ..., bốn mặt cùng đánh vào, không đầy một canh giờ (Tương ứng với hai tiếng đồng hồ ngày nay) đã hạ được thành Xương Giang, tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân giặc giữ thành, chém đầu tướng Thôi Tụ, bắt sống tướng Hoàng Phúc, các tướng lĩnh khác phải nhẩy xuống thành tự tử như tướng Lý Nhậm và tướng Kim Dận”(Theo Đại Việt thông sử chư thần truyện). Sau khi quân ta hạ thành Xương Giang, Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn được lệnh dẫn đại quân đi đánh chặn quân tiếp lương của giặc… .
     IV-)  Sự kiện thứ tư cũng diễn ra cuối năm 1427 sau trận đại bại thảm hại của lực lượng viện binh ở Xương Giang, Vương Thông buộc phải quỳ gối đầu hàng. Tại hội thề Đông Quan, Tổ Trần Nguyên Hãn là một trong những đại diện cao cấp của Lam Sơn dự lễ ký hoà ước, tướng Vương Thông xin rút toàn bộ quân đội nhà Minh ra khỏi đất nước ta. Với những chiến công của Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn, trong cuốn “Đại Việt Thông Sử”(*) Lê Quý Đôn đã viết: Trong buổi lễ hội thề của quân Minh, ông Trần Nguyên Hãn đứng thứ hai sau Vua Lê Lợi,“Nhất quốc đầu mục, Hãn danh đệ nhị thứ, kỳ kiến trọng ư tôn giã”.
           Tháng ba năm Mậu Thân (1428), sau chiến thắng quân Minh xâm lược, giải  phóng hoàn toàn đất nước, triều đình nhà Lê định công ban thưởng quần thần, Tổ Trần Nguyên Hãn đã được Vua Lê Lợi tấn phong “Tả Tướng Quốc” và được đổi sang họ nhà Vua, gọi là Lê Hân. Trong cuộc hội thảo ở Lập Thạch Tỉnh Vĩnh Phúc năm 1988 về thân thế và sự nghiệp của Tổ Trần Nguyên Hãn, giáo sư Văn Tạo đã nói: “Trần Nguyên Hãn là một vĩ nhân, một vị anh hùng dân tộc, xứng đáng được nhân dân ta phụng thờ”.
       Cũng trong năm Thuận Thiên thứ nhất 1428, do cảm nhận có sự xuất hiện dấu hiệu lòng đố kỵ, ghen tuông trong triều đình, nên Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn đã xin về hưu, được Vua Lê Lợi chấp thuận cho trở về Sơn Đông, huyện Lập Thạch nơi sinh ra. Tại nơi đây, Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn lập phủ đệ, đóng thuyền để hưởng thú vui cùng quê hương thôn dã, một năm sau đó, vì sự ganh ghét hiềm khích của bọn ô quan, đã vu cáo Tổ Trần Nguyên Hãn có ý làm phản triều đình. Vua Lê Lợi nghe theo lời ton hót dèm pha ấy, đã hạ lệnh triệu hồi Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn về kinh để khảo vấn... Trên đường về Thăng Long, thuyền vừa đến bến Đông Hồ trên dòng sông Lô, Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn ngửa mặt lên kêu trời rồi nhảy xuống sông trẫm mình!
            Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn mất vào ngày 26 tháng 02 năm Kỷ Dậu (Tức 30-3-1429), cái chết của Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn theo “Lê Triều Thống Sử” của nhà sử học Lê Quý Đôn (Thế kỷ 18) viết:“Tôi (Trần Nguyên Hãn), với Vua cùng mưu cứu nước, cứu dân, nay sự nghiệp lớn đã 

      ---------------------------------------------------------------------------------------

       (*)-  Còn có tên là “Lê Triều Thông Sử”


       thành, nhà Vua nghe lời dèm pha để hại tôi, trời cao có biết không, rồi Ông tự trầm mình!” Sử của làng Sơn Đông có ghi lại rằng: Vua sai sai 42 lực sĩ xá nhân lính của triều đình về bắt ông Trần Nguyên Hãn. Gia nhân và lính hầu của ông Hãn đông và nhiều người có võ nghệ, họ rất tức tối và khuyên Ông chống lại lệnh Vua, nhưng Ông nói:“Ta với Vua cùng mưu cứu nước cứu dân, nay việc lớn đã thành, Vua lại muốn giết ta, Hoàng Thiên có biết nên soi xét cho. Ta không thể sống được với nhà vua, nhưng ta ra mặt chống lại, nhà Vua sẽ viện cớ đó tàn sát giết hại hết con cháu dòng dõi họ Trần, nay chỉ để mình ta và gia quyến chịu chết là hơn.”
           Năm Diên Ninh thứ nhất 1454 (Giáp Tuất), Vua Lê Nhân Tông trong kỳ Đại Xá Thiên Hạ đã minh oan cho Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn, đời vua sau này đã truy phong Thủy Tổ Khảo là “Phúc Thần”, nhân dân địa phương truy tặng Thủy Tổ Khảo là “Khai Quốc Nguyên Huân”. Nhà Vua cũng đã trả tự do và tài sản cho vợ con Tổ. Con trai của Người là Tổ Trần Pháp Độ (Có thể là tên pháp danh của Cụ Tổ, có tài liệu tên Cụ Tổ là Trần Quốc Duy) thi đậu và được mời ra làm quan. Sau khi về nghỉ Tổ đã di cư gia đình chia ra ở ba nơi vào vùng đất Thanh Hóa hai nơi và Nghệ An sau lan sang Hà Tĩnh phát triển dần dần tạo nên dòng họ Trần lớn mạnh ở ba tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, ngày nay đã di cư ra khắp cả nước. 
            Nhân dân làng Gốm và Văn Lãng đã lập Đền thờ Trần Tả Tướng” thờ Thủy Tổ Khảo Tả Tướng quốc Trần Nguyên Hãn theo Lê Lợi diệt giặc Minh giải phóng đất nước đầu thế kỷ XV, đời nhà Mạc (1527-1593) gia phong cho Tổ là “Tả Tướng Quốc Trung Liệt Đại Vương”. Đền Thờ Tổ Trần Nguyên Hãn hiện nay ở xã Sơn Đông huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, trên nền nhà cũ, được xây dựng trên một thế đất bằng phẳng, rộng, cao, tương truyền đây chính là nơi đặt Phủ đệ cũ của Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn, nơi sinh ra Tổ và là doanh sở của Tổ, khi Tổ về hưu. Sử của địa phương (Xã Sơn Đông) ghi rằng:“Thập đạo kinh luân mao ức lý, nhân cựu trạch tử miếu”, có nghĩa là sau mười năm đi chinh chiến, về ở lại ngôi nhà cũ. Đền thờ Đức Thủy Tổ Khảo Trần Nguyên Hãn được nhân dân làng Gốm và Văn Lãng xây dựng năm 1454, được xây dựng lại lớn hơn vào năm 1490 thời triều đại Vua Lê Thánh Tông và đã trang tu, sửa chữa lại nhiều lần. Đền“Trần Tả Tướng”, còn có tên là Đền Quốc Công, đền được cấu trúc theo kiểu chữ “Đinh”, sơn đỏ, có hoa văn Long – Trảo - Nguyệt, xung quanh có tường bao bọc tạo thành khuôn viên chữ “Điền” vuông vắn. Các công trình xây dựng gồm 3 phần: Cổng đền, nhà tiền tế, hậu cung. Từ khi xây dựng Đền đến nay, Đền đã được nhà nước, nhân dân tu sửa nhiều lần và xây dựng thêm, chủ yếu vào đời Nguyễn, nghệ thuật kiến trúc mang phong cách thời Nguyễn, trong đền có hoành phi, bia đá, thơ và đôi câu đối của Trần Danh Xí:
                            將 業 存 靈 地
          瀘 水 神 對 義
                                “Lam Sơn tướng nghiệp tồn linh địa,
                                  Lô thủy thần tâm đối nghĩa thiên”.
                (Sự nghiệp làm tướng đất Lam Sơn còn mãi với đất thiêng này,
        Lòng trung của người bầy tôi trên dòng sông Lô là có Trời biết).
             Trong đền, bài vị thờ: “Đức Vua Tả Tướng Quốc Phủ Quân Tôn Thần” và hai bản đại tự: Tối Linh Đại Vương và Khai Quốc Nguyên Huân, cùng với lá cờ Trần từ thời Lê, có 13 đạo sắc phong của các triều vua từ Hậu Lê đến đời vua Bảo Đại cuối triều Nguyễn, thanh kiếm gia truyền bị mất khoảng vào năm 1880-1883, chuông to mất vào năm 1947. Ngoài ra còn có các di tích: Ruộng hưu quan theo địa bạ cũ của làng Xuân Lôi còn 39 mẫu, 9 thước, các làng Gốm và Văn Lãng cộng lại thành 100 mẫu, đá mài gươm, Rừng Thần, ao Tó, Cồng Khẩu, Chùa Am, làng Quan Tử - Đa Kai …, vẫn còn đó.
              Ngày nay, ngày húy nhật (Tức vào ngày sinh nhật) của Thủy Tổ Khảo Tả Tướng Quốc Trần Nguyên Hãn đã trở thành ngày Quốc lễ, ngày 01-02 âm lịch hàng năm tại đền thờ Trần Tả Tướng. Vào ngày này nghi lễ dâng hương, tế lễ của nhân dân cả nước về thăm tưởng nhớ Người, con cháu của Người làm lễ hội lớn trong vùng. Chúng ta hãnh diện và tự hào là con cháu hậu duệ của Người, chúng ta cùng nhau phấn đấu vươn lên xây dựng dòng họ Trần chúng ta ngày càng hùng cường, vẻ vang khắp mọi nơi .,.
                                                                  
                                                                                       BIÊN SOẠN
                                                                                       
                                                                                KS TRẦN ĐÌNH VIỆT

                                                                          Trưởng chi 1 - Đời thứ 2/10/30




                          ĐỜI THỨ – 11

      THỦY TỔ KHẢO
                           TRẦN NGUYÊN HÃN



      ĐỜI THỨ - 12
   THỦY TỔ KHẢO

   TRẦN PHÁP ĐỘ


       ĐỜI THỨ - 13
       THỦY TỔ KHẢO

TRẦN THIỆN TÍNH


       ĐỜI THỨ - 14
        THỦY TỔ KHẢO
         TRẦN CHÂN THIÊN


           ĐỜI THỨ - 15
                                 THỦY TỔ KHẢO
 TRẦN   THỌ


           ĐỜI THỨ - 16
THỦY TỔ KHẢO
TRẦN VĂN NGẠN


          ĐỜI THỨ - 17
  THỦY TỔ KHẢO
   TRẦN TUẤN KIỆT

ĐỜI THỨ - 18
 THỦY TỔ KHẢO
  TRẦN ĐĂNG DINH

ĐỜI THỨ - 19
   THỦY TỔ KHẢO
   TRẦN ĐĂNG DŨNG

ĐỜI THỨ - 20
  THỦY TỔ KHẢO
   TRẦN ĐĂNG CHẤT


       LƯỢC BẢN TIỀN BIÊN
       GIA PHẢ THỦY TỔ CỦA HỌ TRẦN Ở LÀNG THỊNH XÁ
     (Thịnh Xá ngày nay là xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh


         ĐỜI
           CÁC BẬC   THỦY TỔ KHẢO
         CÁC BẬC THỦY TỔ TỶ
          
         CÁC CON CỦA
        THỦY TỔ
        
           GHI CHÚ


       11


        TRẦN NGUYÊN    HÃN
        01/02/1386 -26/10/1429
        Thái úy - Tả tướng quốc

    1- Bà cả...
      2- Bà hai  LÊ THỊ TUYỂN
       3- Bà ba còn gọi là       CHÚA  LÔI
        12-2-1 Trần Pháp Độ
        12-2-2 Trần Doãn Hữu
        12-2-3 Trần Trung Khoản
        12-2-4 Trần Đăng Huy
        12-2-5  Người con gái

        - Ở Quan Tử
       - Đổi sang họ Quách
       - Đổi sang họ Đào
       12

      TRẦN
       PHÁP
      ĐỘ
        Sinh năm 1424,
        mất 15/7 Kỷ Mão (1519)
       (Tức Trần Quốc Duy
       LÊ
        TỪ QUANG

        13-1-1.  Trần Công Sủng
        13-1-2.  Trần  Đạo Tín
        13-1-3.  Trần Thiện Tính - Hiệu Chân Thường
     13-1-4+5 Hai Người con gái.

          - Hậu duệ ở Tỉnh Gia, Thanh Hóa

         - Hậu duệ ở Nga Sơn, Thanh Hóa
         -   Phủ thờ ở thôn Đan Trung xã Diễn Thắng ngày 27/5/1977 được cấp bằng di tích lịch sử văn hóa quốc gia.




        13 


         TRẦN THIỆN TÍNH
   - Hiệu Chân Thường
      Húy Khương
      Hợp kỵ: 27/3


    LÊ
    THỊ
     TAM NƯƠNG
        Hiệu TỪ PHÚC
     14-3-1  Trần Chân Tịch Tự Phúc Quảng, hiệu Huyền Nghiêm.
     14-3-2  Trần Chân Tính Hiệu Huyền Thông.
   14-3-3 Trần Chân Thiên, hiệu Huyền Linh, húy Sinh Thiên.
        14-3-4  Thế Thủy Tổ cô Trần Quế Hoa Nương.
       Mộ song táng ở xứ Cồn Chu, xã Giai Lạc, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Nhà thờ chi trưởng ở thôn Đồng Tháp, Diễn Hồng, Diễn Châu, Nghệ An. Tổ Trần Thiện Tính là Tổ đầu họ Trần ở Yên Thành.



      14
        TRẦN 
        CHÂN THIÊN
        - Hiệu Huyền Linh, húy Sinh Thiên, phần mộ ở Bàu Ác.
  Mất 14/8
      THÁI
       THỊ
        TỪ NƯƠNG Hiệu:
     TỪ THIỆN
Mất 4/5

       15-3-1 Trần Văn Lộc Hậu duệ ở Đức Thọ.
        15-3-2   Trần Văn Huỳnh, Hậu duệ ở Thanh Chương.
        15-3-3   Trần Thọ -Thượng Tướng Quân.



       15 

       TRẦN
      THỌ
        Phú quận công
       1544-1613

     TRẦN
    THỊ
     ĐÀI
Hiệu:
        TỪ DUYÊN
      Mất 23/3

         16-3-1   Trần Văn Ngạn - Phụ quốc Thượng Tướng Quân, Kiếm Lhầu.




      16



           TRẦN
           VĂN  
         NGẠN
          Phụ quốc Thượng Tướng Quân - Húy: Long, 1560 – 1635. Phần mộ song táng ở xứ Cồn Trảo

         PHAN
        THỊ
         NIÊN
Hiệu:
        T THUẬN
Mất 3/7

     17-1-1  Trần Tuấn Kiệt
        17-1-2  Trần Thọ Nhâm
        17-1-3  Trần Thọ Nhạc.
        17-1-4  Trần Tất Hiệu. (Tất Minh- Hậu duệ ở Tây Hiếu, Nghĩa Đàn).

-      Thế Thủy Tổ Khảo Trần Tuấn Kiệt là Thái Bảo Đông Quận Công.

           17




           TRẦN 
          TUẤN 
          KIỆT
        Thái Bảo Đông quận công
Mất 16/8.
        Phủ thờ ở Giáp Cồn, phần mộ song táng ở xứ Hoa Sen, làng Thuần Vỵ.
         - NGUYỄN THỊ
          ĐÀO
        HiệuTỪ  HÀNH
         - PHAN THỊ THIN
Hiệu:
      T MINH.
       Mất 15/8.
        18-1-1 Trần Đăng Nhượng - Hậu duệ ở Phúc Thành.
         18-1-2 Trần Tế Thế - Hậu duệ ở Phúc Thành
        18-1-3 Trần Phương -Hậu duệ ở Hậu Thành.
          18-1-4 Trần Đăng Dinh - Liêm Quận Công.




      18





        TRẦN ĐĂNG DINH
     - Liêm quận công, húy là Mãn - Trung đẳng tôn thần; 
        Sinh năm 1620 mất năm 1691;
       Phần mộ ở  xứ Hoa Sen






        
        -Đích Tổ Tỷ:
         NGUYỄN THỊ
        QUÝ
        húy là Hành,
     hiệu: T PHÚC
         1619-1659.
       -  Thứ tổ tỷ: TRẦN THỊ DÂN
     Hiệu: T
        THUẬN
      - Và 7 tổ tỉ
     Ba con trai của Tổ đích Tỷ là:
        19-4-1 Trần Đăng Đệ(Có năm con gái)
        19-4-2 Trần Đăng Dũng
        19-4-3Trần Đăng Sỹ
       Các người con của Tổ thứ Tỉ là :
        19-4-4 Trần Đăng Nhuận
        19-4-5 Trần Đăng Tạo
        19-4-6  Trần  Đăng Triều
        19-4-7 Trần Đăng Tương
        19-4-8 Trần Đăng Nhiệm
        19-4-9  Trần Đăng Phái ……
        Tất cả 25 người con.





        - Thế Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Dinh có 9 bà vợ sinh được 16 người con trai đều là Hoàng tín đại phu, tước hầu và 9 người con gái.




        19
         TRẦN ĐĂNG DŨNG
       Diễn Trạch Tử (1642-1673).
      Mất 12/8 lúc mới 32 tuổi; Mộ song táng ở  xứ Cửa Nương làng Vũ Kỳ.
      LÊ
      THỊ
       ĐỊNH
    Mất ngày  01/10


         20-2-1   Trần Đăng Chất

         20-2-2   Trần Đăng Dụng

  
-      Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Dũng, có từ đường thờ  ở làng Vũ Kỳ





         20
        
         TRẦN ĐĂNG CHẤT
      - Diễn dũng hầu, mất 05/5.   Mộ hai cụ Thủy Tổ táng song hồn ở xứ nhà thờ giáp Phúc Am, thuộc cửa nhà thờ ở làng Vũ Kỳ
   -  Đích tỷ:
        LÊ 
       THỊ 
       LAN
      Hiệu : TỪ NHÂN,
    mất 12/6
      -  Thứ tỷ: TRẦN TRẮC THẤT
     Người quê Thanh Hóa,
        21-1-1 Trần Đăng Thuần
         21-1-2 Trần Đăng Trí
         21-1-3 Trần Đăng Diên  
         21-1-4 Trần Đăng Tùng
         21-1-5 Trần Đăng Quý
        21-1-6 Trần Đăng Đoan
        21-1-7 Trần Đăng Nhàn
        21-1-8 Trần Thị Hiền
        21-1-9 Trần Thị Liên   
        21-1-10 Trần Thị Huệ
        21-1-11 Trần Thị Phái

      








       - Tổ Trần Đăng Đoan, Hậu duệ ở xã Nam Trạch nay là xã Hương Bình, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.




PHẦN THỨ  III
                                                                

GIA PHẢ DÒNG HỌ

THỦY TỔ KHẢO
         TRẦN ĐĂNG NHÀN

 Ở LÀNG THỊNH XÁ
NAY LÀ XÃ SƠN THỊNH - HUYỆN HƯƠNG SƠN 
TỈNH HÀ TĨNH





        LỜI GIỚI THIỆU
                 Dòng họ Trần chúng ta ở xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh đã có lịch sử khoảng trên 300 năm phát triển, là một dòng họ lớn tại xã, khi tôi biên soạn cuốn gia phả này trong gia tộc đã có nhiều cuốn gia phả của các chi họ để tham khảo, phần này khi tôi biên soạn là có được đầy đủ tài liệu nhất, vì vậy việc biên soạn này cần có cách xắp xếp cho khoa học, đúng.
             Tôi biên soạn phần III cuốn “Gia phả đại tộc Trần” này bắt đầu từ năm 1996 khi tôi cùng Hiền Khảo với Đệ huynh về quê xây 13 ngôi mộ của chi họ ta và tôi sao được cuốn “Gia phổ họ Trần”. Sau này tôi tìm hiểu ghi chép, tham khảo từ các cuốn gia phả trong họ đặc biệt vào năm 2011 tôi nhận bản đánh máy cuốn “Gia phả, gia tộc họ Trần” của cụ Trần Xuân Kiều (Cụ thuộc đời 21-1-1; đời 25-1-2; đời 26-2-3; đời 27-3-1; đời 28-1-3; là đời 29-3-1) để tôi ghép 6 phần cụ đánh máy. Sau khi in bản nháp trong năm 2012, tôi đã cùng với cụ Trần Xuân Kiều tham gia vào hiệu đính, sắp xếp sau khi trong họ các cụ đã hiệu đính và tôi mang đi in, đây là quyển gia phả của cả gia tộc họ Trần ta ở quê nhà. Vì vậy khi biên soạn cuốn gia phả này tôi có được tham khảo nhiều tài liệu, các cuốn gia phả của các chi họp Trần chúng ta ở xã Sơn Thịnh. Mỗi cuốn gia phả đều có cách trình bầy khác nhau, tôi soạn theo cách bố cục của cụ Trần Đình Đắc nhưng tôi mở rộng trong từng đời, từng chi, đánh số thứ tự chi tiết rõ ràng. Tôi chọn cách xưng hô theo thứ bậc là của tôi nên tôi viết theo thứ bậc của tôi do đó khác với tất cả các cuốn gia phả, cách xưng hô cụ thể như sau:
-  Với dòng trực hệ sinh mình ra thì phải có chữ “Khảo”, ví dụ như Tổ Khảo tức ông nội của tôi đã mất, Hiền Khảo là cha của tôi đã mất, nếu các cụ chưa mất thì viết đúng như thường gọi là Ông Nội, Cha, …, cha của Tổ Khảo viết là Tằng Tổ Khảo, cứ như vậy đến Cao Tằng Tổ Khảo, Cao Cao Tằng Tổ Khảo, ….
  -   Ba cụ Tổ đầu tiên của dòng họ ta là cụ Nhất Đại Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn; Nhị Đại Thủy Tổ Khảo Trần Trọng Tưởng; Tam Đại Thủy Tổ Khảo Trần Bá Huân, Cao Cao Cao Tằng Tổ Khảo Trần Bá Phấn, đến đời con của tôi thì gọi cụ Tổ Khảo đời thứ 4 thì cháu phải khấn là cụ Tứ Đại Thủy Tổ Khảo Trần Bá Phấn. Cách gọi, viết mỗi người cứ như vậy kéo dài tới tất cả các đời cháu, chắt, chít, …., sau này mọi người cần nhớ cho đúng.
  -   Với các chi khác không cùng chi với ta thì cũng viết như trên nhưng không có chữ Khảo, ví dụ như: Tổ, Tằng Tổ, Cao Tằng Tổ,… nếu là anh em ruột của cụ tổ nhà mình thì thêm như Bá Khảo, Thúc Khảo, Bá Tỉ, Thúc Tỉ … . Khi cúng khấn thì mọi người thêm chữ Hiển đằng trước, như Hiển Tổ Khảo Trần Khắc Tri, Hiển Tổ Tỉ Nguyễn Thị Chắt, Hiển Tổ Bá Khảo Trần Khắc Trạch … cần đọc và hiểu đúng như trong “Phụ lục, mục I trang 243” của cuốn này.
  -   Khi mọi người đọc gia phả cần chú ý đọc ý nghĩa các dấu ghi chú (*) hoặc chữ GHI CHÚ cần đọc để hiểu dõ hơn.     
  -   Khi lập gia phả cần ghi được ít nhất là 5 đời anh em của từng chi, nếu có thể hơn càng tốt nhưng cần tuân theo cách ghi số thứ tự như tôi đã ghi, ví dụ số thứ tự là: 30-3-1 là số của tôi, vì gia phả là của tôi, tôi là đời thứ 30, cha tôi là chi 3, tôi là con trai lớn nhất trong nhà số 1(Con trưởng).
  -   Với những anh em họ thì cách đánh số thứ tự  theo dòng trực hệ cho đến khi cùng chung cụ tổ với thứ tự đời trong gia phả, ví dụ: Số thứ tự 30-1-2) Ông Trần Đình Thủy là đọc trong gia phả, khi viết ra giấy thì phải viết đủ là: “Ông Trần Đình Thủy (thuộc đời 27-1-5; đời 28-5-3; đời 29-3-1; là đời 30-1-2)” như vậy ông Thủy với tôi cùng là cháu nội của cụ tổ đời 26-1-1 Cao Tằng Tổ Khảo Trần Đức Mỹ, tức cùng là thế hệ thứ 5 khi cụ mất thì cùng vấn khăn đỏ.
  -   Nếu ai muốn tìm mình trong gia phả thì cần tìm dần từ đời thứ 3 có ba đại chi là đại chi 1, đại chi 2, đại chi 3 và có 9 chi từ chi 1 đến chi 9 như 9 bài vị ở trong nhà thờ Đại Tôn họ Trần ta ghi là “Đại chi 1, Chi 1 Đình Biểu…đến Đại chi 3, Chi 9 Đình Phu”, muốn tìm nhanh thì cần nhớ được cụ tổ của mình ở đời thứ mấy, tên cụ là gì, sau khi tra được trong cuốn“Gia phả đại tộc Trần” ta kết hợp với cuốn“Gia phả, gia tộc họ Trần” sẽ tìm thấy phần chi họ của mình. 
              Như vậy , phần 3 của gia phả này là được biên soạn chi tiết, chính xác nhất,  nhờ tôi có được nhiều tài liệu từ các cuốn gia phả của các cụ xưa để lại. Tôi mong rằng khi mọi người đọc sẽ tiếp tục bổ xung, đính chính thêm cho đầy đủ hơn, và thông báo cho mọi người, cho tôi theo Email đã ghi trong những dòng cuối của “Lời ghi nhớ” trang 14 hay trang 192 của cuốn này.
               Nhà thờ Đại Tôn họ Trần chúng ta ở tại xóm Thịnh Nam, tất cả các Cụ cách chúng ta sáu đời trở về trước đều được đưa vào nhà thờ để thờ phụng, nhà thờ được khởi công xây dựng lại vào năm 1875 đến nay đã nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhất là vào năm 1997 mới được như ngày nay. Về công đức, đóng góp như trên bia đá đã khắc,  năm nay tháng 11-2017 lại sửa chữa, tôi đã đi vận động trong chi 3 của Hiền Khảo được như sau: Cô Trần Thị Hạnh 2.000.000đ, bác Trần Thị Kim Nga 200.000đ, chú Trần Đình Thắng mất thím Lê Thị Oanh 200.000đ và tôi 200.000đ tổng cộng được 2.600.000đ, và tôi cùng BLL họ Trần tại Hà Nội vận động với một số chi họ khác tổng thu được 15.500.000đ, tôi và bác Trần Thanh Tịnh trưởng ban liên lạc họ Trần ta tại Hà Nội đã gửi về quê cho ông Trần Văn Vỹ là Trưởng hội đồng gia tộc họ Trần ta ở quê.
               Tất cả chúng ta, là con cháu họ Trần cùng đoàn kết phấn đấu vươn lên xây dưng gia tộc chúng ta ngày càng vững mạnh, vẻ vang, cùng nhau hướng về quê hương nơi cha mẹ chúng ta sinh ra, nơi Tổ Tiên chúng ta đã từng sinh sống. Chúng ta cùng nhau giữ gìn bảo tồn nhà thờ Đại Tôn họ Trần được trường tồn theo thời gian, theo non nước.
                                                           Thịnh Quang, ngày 16 tháng 12 năm 2017
                                                                                      BIÊN SOẠN

                                                                                  TRẦN ĐÌNH VIỆT                       




         HỌ TRẦN XÃ SƠN THỊNH

                1-     HỌ TRẦN VÀ NHÀ THỜ HỌ Ở LÀNG THỊNH XÁ
 Họ ta xây dựng cơ nghiệp ở làng Thịnh Xá, xưa lúc chưa có nhà thờ, chỉ phụng sự (Tức thờ cúng) chung ở nhà trưởng tộc, có biệt riêng 2 gian là nhà thờ của vị Lê triều Hiệu sinh là Trần Trọng Đăng mà thôi. Đến năm Giáp Tuất là năm Tự Đức thứ 27 ngày 24-02-1874 nhân loạn Triều binh quân Pháp tiến lên đốt phá, lúc ấy nhà trưởng tộc và nhà thờ đều bị đốt cả. Sau đến năm 1875 ngày 01-6 năm Ất Hợi, đời vua Tự Đức thứ 28 mới khởi công làm lại nhà thờ, tiền cúng lúc đó được 520 quan. Từ đó, họ có nhà thờ để phụng sự hương hỏa, còn có 2 vị hiệu sinh là Trần Hữu Nghĩa và Trần Văn Nghệ nguyên trước phổ hệ không có, sau nhận trong văn chỉ của làng ta mới rước về phụng sự.
 Năm 1876 ngày 15-6 Bính Tý (*) niên hiệu Tự Đức thứ 29, có làm một lễ chay to, hai ngày đêm, đến khoa Mậu Tý (1888) là năm hiệu Đồng Khánh thứ 3, trong họ có Tằng Tổ Trần Đình Bạt thi đậu Tú Tài (Tổ là con đầu của Tổ Trần Văn Nhạ, cháu của Tổ Trần Đình Cử và chắt Tổ Trần Bá Phấn).
 Sang năm Canh Tý (1900) là năm thứ 12 đời Thành Thái, họ ta làm thêm hai gian ở Á đường để thờ ba vị hiệu sinh Trần Trọng Đăng, Trần Hữu Nghĩa, Trần Văn Nghệ.
 Nhà thờ lớn họ Trần của chúng ta đã được con cháu trong họ vừa qua sửa chữa, tu bổ, tôn tạo rất đẹp và uy nghiêm, chắc chắn dòng họ ta lại vượng phát muôn đời nối tiếp. Nhà thờ lớn họ Trần hiện nay có Linh Vị thờ Cụ Nhất Đại Thuỷ Tổ Khảo, Cụ Nhị Đại Thuỷ Tổ Khảo, ba Linh Vị thờ ba Cụ Tam Đại Thuỷ Tổ Khảo là ba đại chi, có 9 Linh Vị thờ chín chi, chín cụ Tứ Đại đời thứ 24, chín Linh Vị được ghi là: Đại Chi 1, Chi 1 Đình Biểu; Đại Chi 1, Chi 2 Đình Vân; Đại Chi 1, Chi 3 Khắc Xương; Đại Chi 1, Chi 4 Khánh Duệ; Đại Chi 1, Chi 5 Đình Cổ; Đại Chi 1, Chi 6 Bá Phấn; Đại Chi 2, Chi 7 Trọng Chương; Đại Chi 3, Chi 8 Đình Bảo; Đại Chi 3, Chi 9 Đình Phu. Trong nhà thờ lớn có câu đối: “Sàng thùy vi khả kế dạ - Tràng viễn chung tất lại chi”, nghĩa là: “Tổ Tiên gây dựng, làm cho con cháu noi theo – Con cháu dài lâu, nhờ có Tổ Tiên mở trước”, ý muốn nói con cháu chúng ta phải ghi nhớ mãi mãi.
 Sách có chỉ rằng“Công hầu chi gia, tất phục kỳ thỉ”- Nay và sau này chúng ta tiếp nối theo mà mở mang ra cho khỏi phụ công đức của Tiền Nhân – Tổ Tiên chúng ta đã gây dựng bao đời nay.

      ---------------------------------------------------------------------------------------
      (*)- Theo gia phả của cụ Trần Văn Uyên thì là năm Bính Tuất (1886), còn lại các gia phả khác đều là năm Bính Tý (1876).

                2-   ĐI TÌM GỐC TỔ  
           Nguyên trước truyền lại, Thỉ Tổ họ Trần Trọng Nhàn ta từ tỉnh Thanh Hóa, huyện Quảng Xương, Tổng Thủ Hộ, có quán hàng cơm nhân loạn chạy đến ở đất Thịnh Xá. Họ ta không có thế phổ để lại, Chỉ với thông tin này, cụ Tổ đầu tiên đi tìm gốc Tổ là Cụ Cao Tằng Tổ Trần Văn Nhạ - Chi 2, đời thứ 6/26 và một cụ người họ nữa đi ra tỉnh Thanh Hóa đến quán hàng cơm hỏi về gốc tích Tổ Tiên, nhưng không có bằng cứ thông tin gì. Qua đến đời vua Thành Thái, cháu đời thứ 7/27 con trai của cụ Nhạ là cụ Tú tài Tằng Tổ Trần Đình Bạt cùng các Cụ Tằng Tổ Khảo Thi sĩ Trần Xuân Cẩm; Cụ Tằng Tổ Trần Đình Hòe và cụ Tổ Trần Liêm lại đi ra tỉnh Thanh Hóa, huyện Quảng Xương, Tổng Thủ Hộ, xã Bằng Trình, làng Nhân Lý hỏi thăm Tổ tích, nhưng cũng mơ hồ không hỏi rõ được gì. Đến năm Tân Dậu (1921) đời vua Thành Thái, họ ta đã đi đoán tiền đồng phẩm, đoán rằng nguyên Tổ Tiên ta ở Nghệ An, huyện Yên Thành, xã Giai Lạc, làng Diệu Ốc. Đến đời cụ Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Chất, phụng mệnh ở tỉnh Thanh Hóa, lấy bà thiếp sinh được 2 con trai tên là Trần Đăng Nhàn và Trần Đăng Đoan. Thời ấy loạn lạc, cụ Tổ Trần Đăng Nhàn chạy loạn vào huyện Hương Sơn, làng Thịnh Xá, trong lời đoán đó, kể rõ thể thứ, tên tuổi và sự nghiệp rõ ràng, hiện có lời để lại, từ đó về sau họ ta cũng chưa kịp tổ chức đi nhận Tổ Tiên.
             Đến năm Bảo Đại thứ 8, tháng 2 Quý Dậu(1933), cháu đời thứ 7 cụ Tằng Tổ Trần Đức Nghị (Cụ cố Nại) có nhận việc làm của Tòa Công chính ở huyện Yên Thành, nhân dịp đó đã hỏi được Tổ tích nguyên ủy, y như lời đoán đồng phẩm, sau này cụ Tằng Tổ Trần Đức Nghị về đưa người họ cháu đời thứ 8 Hàn lâm viện đại chiếu Tổ Trần Văn Đại với Tổ Trần Viên cùng Tằng Tổ Trần Đức Nghị đi đến huyện Yên Thành, Tổng Quang Hóa, làng Diệu Ốc, đến nhà quan Cử nhân - Hàn lâm kiểm thảo Trần Văn Hun làm giám tự, đã hỏi được Tổ tích phù hợp, rõ ràng. Đến tháng 8 năm ấy, Cụ Nại với cháu đời thứ 8 Tú tài Tổ Trần Đình Huy, Thi  sĩ Tổ Trần Đình Đối, Tổ Trần Khắc Hoành(*), Trưởng tộc cụ Trần Ngôn đi tới nhà quan Giám tự Trần Văn Hun xin sao thể phổ, có đưa lễ vật báo cáo ở phủ thờ, có cúng bạc 5$ (Quan) và đi qua làng Vũ Kỳ báo cáo ở nhà thờ Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Chất, có cúng bạc 3$ (Quan), sau khi làm lễ xong thì họ ta sao được thế phổ và rước về phụng sự ở nhà thờ Đại tôn họ Trần làng Thịnh Xá, các vị Tổ Tiên họ Trần chúng ta thờ ở phủ thờ làng Phúc Thọ và làng Vũ Kỳ huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.
            Cụ Cố Nại có câu:“Hải hữu nguyên” nghĩa là nước có nguồn, hiện nay đặt trước bái đường nhà thờ Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Dinh ở huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An  .,.

 Ở Anh Sơn, Nghệ An có người đã tặng họ ta 2 bài thơ:
        BÀI THƠ THỨ NHẤT
Trần gia bản thị công khanh
Rạng soi đuốc ngọc, Yên Thành vinh thân,
Gặp lúc Mạc thị biến thần
Ruỗi tới Thanh Hóa Đồng Luân mở đường,
Cũng đều hương hữu dư khương
Sinh ra nam tử đôi chàng thế gian,
         -------------------------------------------------------------------------------------------
         (*)- Theo cuốn “Gia phổ họ Trần” do cụ Đắc là con cụ Tổ Trần Khắc Hoành ghi để lại thì cuốn gia phả cụ Hoành đã ghi là “Trích ở gia phả họ Trần ở làng Diệu Ốc, xã Giai Lạc, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An tháng 7-1933”nên đi đến Yên Thành có cả Tổ Trần Khắc Hoành.


Đã vẹn huynh đệ Đoan, Nhàn (*)
Nhàn thì gặp buổi xa gần vào ra,
Tới đến Thịnh Xá đỉnh tòa,
Sinh hạ Trần Tưởng (**) truyền gia hội đồng
Nhàn thác gặp buổi bắc đông,
Tống táng tư lễ chân vong thành phần,
Đã hay vẹn tỏ tha nhân
Đất này cũng có tốn tàn hoành hình,
Chỉ hiềm danh Biểu (***), danh Trinh
Phá mất cái cồn tam tinh hậu đầu
Tổ Tỷ cũng đã bảnh bao
Nhưng chốn Núi Nại, thổ châu mở đường,
Mộ này quy vu Nam phương
Chỉ thấy tiết lộ bình bàng lưu lại,
Tộc nội hưng vượng đinh tài
Lại thêm khoa mục các đài hiệu sinh
Xem ra sum họp đôi ngành
Nhờ chốn Sắn Trà hị Đinh Vị Tiền
Trần Tưởng được chốn tự nhiên
Lẽ ra tương tiếp quan viên anh hùng
Chỉ mắc danh Kiêm, danh Trung
Xâm cồn quản khế vòng cung triều về
Nam phương cao hóa vì đê
Cũng bởi danh Tinh, danh Khuê hay đào
               ……………………………………………
Thái phó đã rõ, họ Trần
Quận công, hầu bá tướng quân Lê triều
Yên Thành, Giai Lạc, Kim Âu
Diệu Ốc thôn nhận một bầu mới thơm.
              Túng sự họ ta gặp tìm
Tìm được sự tích càng thêm nhiều tầng
Lại tới xứ Thanh Trung Hưng
Bút quang Hà Tĩnh lưu quang hiền đề
Kế tiếp Huân, Chiếu (****) tương tri
Lại thêm Đăng, Nghĩa, Nghệ (*****) khi cho đành
Mấy hồn trễ phách lanh danh
Cứ thử hợp tạ phân minh rõ ràng
Tự thử con cháu hiển dương
Rồi ra vẹn vẽ nam bang muôn đời.
       --------------------------------------------------------------------------------------
               (*)- Cụ Trần Đăng Nhàn là Cụ Nhất Đại Thủy Tổ Khảo họ Trần xã Sơn Thịnh, Cụ Trần Đăng Đoan là anh ruột cụ Trần Đăng Nhàn, ở xã Nam Trạch (Nay là xã Hương Bình), huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh.
               (**)- Cụ Nhị Đại Thủy Tổ Khảo Trần Trọng Tưởng 
                 (***)-  Cụ Tứ Đại Thủy Tổ Trần Đinh Biểu đời 4/24 là Tộc Trưởng dòng họ chúng ta
            (****)- Cụ Tam Đại Thủy Tổ Khảo Trần Bá Huân và em ruột là cụ Trần Nhật Chiếu
        (*****)- Cha là Cụ Tam Đại Trần Trọng Đăng và hai người con là Trần Hữu Nghĩa và Trần Văn Nghệ.

          BÀI THƠ THỨ HAI
Trần gían bản thị quang huy
Xem đến thuở trước tam chi hào hùng.
Khoa mục tiếp bổ ngoài trong
Cũng đều mở tịch gia phong hào cường
Trần Nghĩa hướng hữu dư khương
Thôn nỗi hào hữu lỡ làng lắm thay
Tứ tự dự lẹi cùng tài
Trần Bạt hưởng phúc thái lai đăng tường (*).
Có muốn chen chót giải hương
Vừa tuần ắt được ghi phương thái bình
              Một niềm kỳ đão tiên sinh
Tài tầm trễ phách phân minh rõ ràng.
Chẳng cứ quân tử đa mang
Trăm năm ghi tạc đá vàng thổ sa.
Tộc nội mấy ông lão đã già
Tấm than chớ bức vội gà vinh than
Nhuận sắc cũng vẹn trong tuần
               Hoa liên xếp lại hơi dền mấy mươi
Chân nhân chớ bức sự đời
Xem ra cho biết một trai tu phòng
Phỏng qua cho khỏi ngưu long
Kẻo khi mấy hội bắc đông bất kỳ.
…………………………………
Trần thế lưu lại đồng quan
Con cháu hãy có khai nhan khoa đề.
Nay chừ con cháu quá cô
Vài đời chẳng biết mơ hồ lắm thay …

                                                                                                      Hà Nội, ngày 29 tháng 6 năm 2016
                                                                            BIÊN SOẠN
                                                                              
                                                                      KS TRẦN ĐÌNH VIỆT
                                                                      Trưởng chi I – Đời thứ 2/10/30
                                                                                            (THEO“GIA PHỔ HỌ TRẦN VÀ GIA PHẢ, GIA TỘC HỌ TRẦN”)


--------------------------------------------------------------------------------------
(*)-  Năm 1888 Tằng Tổ Trần Đình Bạt thi đậu Tú Tài và ra làm quan, Cụ Bạt đời 7/27 đỗ tú tài đầu tiên của dòng họ ta, cụ thuộc chi 2 đời 26 là con của Cao Tằng Tổ Trần Văn Nhạ, Tổ Nhạ là em ruột Cao Tằng Tổ Khảo Trần Đức Mỹ chúng ta.




ĐỜI THỨ - 21

      NHẤT ĐẠI THỦY TỔ KHẢO
   TRẦN ĐĂNG NHÀN
  CHI – 7

 ĐỆ NHẤT ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN ĐĂNG NHÀN - Quan viên tử, Hương lão lão nhiêu TRẦN MẠNH LINH tự TRỌNG NHÀN (*) thị đôn phác phủ quân, Nhất Đại Thủy Tổ Tỉ tòng phu chức Trần Chính Thất LÊ THỊ HẠNG NHẤT PHU NHÂN
 NHẤT ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN ĐĂNG NHÀN của chúng ta sinh khoảng năm  Canh Thìn (1700) ở tỉnh Thanh Hóa, cha Ngài là Thủy Tổ Trần Đăng Chất trong lần đi khâm sai ở Thanh Hóa đã lấy thêm vợ hai sinh được hai người con trai, người con cả Trần Đăng Đoan vào lập ấp ở làng Nam Trạch, huyện Hương Khê, Hà Tĩnh,  khoảng đầu thế kỷ 18, trong lần đi hành khiển ở huyện Hương Sơn, Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn coi phong cảnh và đất đai ở địa phận Nhà Chàng (xứ Chàng Xá) rộng rãi, vui vẻ. 
--------------------------------------------------------------------------------(*)-   Theo cuốn “GIA PHẢ HỌ TRẦN” của cụ Trần Đình Khoa thì tự là ĐĂNG NHÀN.


Thủy Tổ Khảo di cư vào rồi chiêu dân lập ấp ở làng Thịnh Xá, lập nên dòng họ Trần duy nhất tại xã Sơn Thịnh sinh con cháu ngày càng đông đúc, phát triển phồn thịnh, đỗ đạt nhiều khoa bảng kế tiếp, đời đời dạng danh.
 Nhất Đại Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn mất ngày 16/7.
 Phần mộ của Nhất Đại Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn táng ở xứ Cầu Đở làng Tri Lễ (Nay là Sơn Lễ) trước núi Lợn (Trư Sơn), sau cách Hói Đam và phần Sơn, phần mộ Thủy Tổ Tỉ Lê Thị táng ở mái dương Núi Nại tức là phía Nam.
 Ngày 15/01 Đinh Tỵ (Tức 04-3-1977) họ ta đã rước cả về xây thành khu lăng mộ ở Núi Nại, hiện nay là khu mộ tròn, nằm ở gần đỉnh giữa của núi Nại nếu ta đi từ làng lên núi và hướng nhìn lên núi Nại.
Nhà thờ Đại tôn họ Trần ở xã Sơn Thịnh thờ Nhất Đại Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn và Nhất Đại Thủy Tổ Tỉ Lê Thị cùng con cháu của Người, nhà thờ được xây dựng lại ngày 01/6 Ất Hợi tức ngày 03-7-1875. Vừa qua trong khuôn viên nhà thờ bên tả đã xây dựng xong nhà bia liệt sĩ họ Trần ta hy sinh qua các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ Quốc chống Pháp, chống Mỹ, biên giới Tây Nam và khánh thành vào ngày Thương Binh Liệt sĩ 27-7-2013, còn bên hữu không dõ thờ ai, xây lúc nào. Hai cụ Thủy Tổ sinh được 6 người con trai và một người con gái:
   22-7-1  Thế Nhất Đại Thủy Tổ Khảo TRẦN TRỌNG TƯỞNG là Cụ Nhị Đại Thủy Tổ Khảo đời thứ 2/22 của chi họ chúng ta và Nhị Đại Thủy Tổ Tỉ là NGUYỄN THỊ DUYÊN, các cụ sinh được 6 người con, có 5 trai và một gái.
   22-7-2   Nhị Đại Thủy Tổ TRẦN NHỊ LINH theo Đạo Phật còn lại không dõ tên tuổi, Nhị Đại Thủy Tổ sinh được 4 người con trai và một người con gái, nay chi này thất tích, cụ thể là:
       23-2-1  Tam Đại Thủy Tổ Trần Bá Ngoạn làm phó Sở sứ, sinh được bao nhiêu người con không dõ, có người con trưởng là:
              24-1-1-   Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Khán;
         23-2-2 Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Đương;
         23-2-3   Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Nhật;
         23-2-4   Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Tập;
         23-2-5   Tam Đại Thủy Tổ Trần Thị Bình;
   22-7-3   Nhị Đại Thủy Tổ TRẦN TAM LINH sinh ba người con gái: con đầu không rõ, con thứ hai là vợ chính thất vị hiệu sinh họ Hà; con thứ ba là:
        23-3-3   Tam Đại Thủy Tổ Trần Thị Dung;
   22-7-4   Nhị Đại Thủy Tổ TRẦN TỨ LINH (Khuyết);
   22-7-5   Nhị Đại Thủy Tổ TRẦN NGŨ LINH tự TRỌNG TẤN sinh một người con gái là:   
       23-5-1   Tam Đại Thủy Tổ Trần Thị Bái;
   22-7-6  Nhị Đại Thủy Tổ TRẦN LỤC LINH tự TRỌNG TIẾN, húy là Kiết, làm từ đường, Tổ có sinh được 4 người con trai và 2 con gái (*):
       23-6-1  Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Thăng sinh được một con gái.
       23-6-2  Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Sĩ - Làm ưu binh kiêm nội đạo, sinh được 2 người con trai là:
            24-2-1-   Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Ngọc.
            24-2-2-   Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Thạch.
       23-6-3    Tam Đại Thủy Tổ Trần Trọng Lân húy là Quyến làm ưu binh, sinh hai người con trai là:
            24-3-1-   Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Gia Hội.
            24-3-2-   Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Thịnh.
       23-6-4   Tam Đại Thủy Tổ Trần Thúc Đạt sinh con trai là:
            24-4-1-   Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Đốc.
       23-6-5   Tam Đại Thủy Tổ Trần Thị Chính.
       23-6-6   Tam Đại Thủy Tổ Trần Thị Trình.
   Chi Tổ Trọng Tiến hiện nay cũng không thấy hậu duệ về nhận Tổ Tiên.
   22-7-7  Nhị Đại Thủy Tổ TRẦN THỊ LÁI (CÁI) là vợ chính thất ngài xã trưởng họ Nguyễn, về họ Nguyễn Xuân.
--------------------------------------------------------------------------------
 (*) - Cháu của Tổ Trần Trọng Tiến có ngài tên là Trần Cường không rõ con Tổ nào.
     



           ĐỜI THỨ - 22

  NHỊ ĐẠI THỦY TỔ KHẢO
 TRẦN TRỌNG TƯỞNG
           CHI 1
       ĐỆ NHỊ ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN TRỌNG TƯỞNG – Quan viên tôn, Hương trung kỳ lão, bản xã xã trưởng TRẦN MẠNH CÔNG, tự là TRỌNG TƯỞNG thị cương trực phu quân, Nhị Đại Thủy Tổ Khảo ta Ngài tên húy là YẾN, tự là ĐIỂU.
       Nhị Đại Thủy Tổ Khảo Trần Trọng Tưởng mất ngày 08/6, phần mộ ở trước lăng Sắn Trà, địa phận làng Đông Mỹ, giáp cận với làng ta. 
       Nhị Đại Thủy Tổ Tỉ tòng phu chức Trần Chính Thất NGUYỄN THỊ hạng nhất phu nhân, Nhị Đại Thủy Tổ Tỉ tên húy là DUYÊN, mất ngày 11/3, phần mộ ở trước lăng Sắn Trà, địa phận xóm Cống ở gần đường.
       Nhị Đại Thủy Tổ Khảo Trần Trọng Tưởng và Nhị Đại Thủy Tổ Tỉ Nguyễn Thị Duyên được thờ phụng trong nhà thờ Đại Tôn họ Trần xã Sơn Thịnh.(*)
       Mộ phần của hai cụ nhị đại Thủy Tổ hiện nay vào ngày 15/01 năm Đinh Tỵ tức ngày 04-3-1977 họ ta đã rước cả hai Cụ Thủy Tổ về núi Nại.(**)
Nhị Đại Tổ sinh được 5 người con trai và một người con gái:
23-1-1  Thế Nhị Đại Thủy Tổ Khảo TRẦN BÁ HUÂN -  Là Cụ Tam Đại Thủy Tổ Khảo đời thứ 3/23, là ĐẠI CHI - 1 (***) của chi họ chúng ta, Cụ Tam Đại Thủy Tổ Tỉ là ĐINH THỊ KHIÊM, Cụ sinh được 9 người con trai đến ngày nay còn 6 chi và 2 người con gái.
23-1-2   Tam Đại Thủy Tổ TRẦN TRỌNG ĐĂNG – ĐẠI CHI - 2, Tiền Lê bản phủ hiệu hiệu sinh, kiêm bản xã xã quan Trần Quý Công tự Trọng Đăng, hiện thờ ở nhà thờ họ ta. Ngài tên húy là Tình, mất ngày 20/3 phần mộ ở xứ ông voi hay rú Nại, ngày giỗ thì hợp tự với hai người con trai là hai vị hiệu sinh Hữu Nghĩa và Văn Nghệ. Dòng họ của Cụ là dòng nho học khoa bảng được tôn trọng, nhưng về sự phát đạt sinh tồn thì lại lắm éo le trắc uẩn, người học có tiếng thì nhiều người đậu đạt thì quá hiếm. Ngài sinh hạ được 4 người con trai:
     24-2-1    Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Khuê (Khuyết)

--------------------------------------------------------------------------------
    (*)- Theo linh vị trong nhà thờ Đại Tôn có 3 đại chi 1, 2, 3; có 9 chi lớn ví dụ nhành họ của tôi Linh vị ghi là “ĐẠI CHI 1, CHI 6 BÁ PHẤN.
  (**)- Cần xem lại có không, vì bố trí không hợp lý ngôi thứ nếu có chuyển về - Theo cuốn “Gia phả, gia tộc họ Trần”.
(***)- Từ đời thứ 3/23 có ba cụ, trên Linh vị thờ trong nhà thờ họ có 9 Linh vị của 9 chi gồm các cụ đời thứ 4/24 được ghi như  sau: Ví dụ chi 6 Thủy Tổ Khảo Trần Bá Phấn của chúng ta là Đại chi I chi 6 Bá Phấn .
     24-2-2   Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng ChươngLinh vị trong nhà thờ họ ghi “ĐẠI CHI 2, CHI 7 TRỌNG CHƯƠNG”, cụ có sinh:
          25-2-1-   Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Đán sinh:
               26-1-1-   Cao Tằng Tổ Trần Trọng Chùy sinh:
                     27-1-1-  Tằng Tổ Trần Trọng Đam sinh: 28-1-1)- Tổ Trần Trọng Giai (Tức cố Hán) sinh: 29-1-1- Cụ Trần Thống sinh: 30-1-1- Ông Trần Đình       Hiền sinh: 31-1-1) Trần Văn Tuấn, 2)Trần Văn Tư, 3)Trần Văn Toàn, 4)Trần Thị Tuyết, 5)Trần Thị Tuyền. 30-1-2- Ông Trần Đình Hậu sinh: 31-2-1) Trần Văn Sanh; 2) Trần Văn Luận; 3)Trần Thị Oanh; 4)Trần Thị Lành; 5)Trần Thị Lý; 30-1-3- Ông Trần Đình Dũng sinh: 31-3-1)Trần Văn Sơn;  2) Trần Thị Liên; 3) Trần Thị Nguyệt; 4) Trần Thị Nga; 5) Trần Thị Hằng;
     24-2-3   Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Hữu Nghĩa; (Tú tài - Thất truyền)
     24-2-4   Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Văn Nghệ. (Tú tài - Thất truyền)
    
23-1-3  Tam Đại Thủy Tổ TRẦN TAM LINH tự là TRỌNG TỤY(Khuyết);
23-1-4  Tam Đại Thủy Tổ TRẦN TỨ LINH - Bản xã xã trưởng cựu ưu binh khuông tiền đội chi thụ bá hộ, tự là ĐÌNH TRẠC, húy là ĐỒNG, sinh được một người con trai và 2 con gái:
     24-4-1    Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Hách; (Thất truyền)
     24-4-2    Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Thị Hoan (Hoa).
     24-4-3    Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Thị Hoàn (Hoan).         


23-1-5   Tam Đại Thủy Tổ TRẦN NHẬT CHIẾU – ĐẠI CHI - 3: Tiền Lê bản huyện sinh đồ, Bản xã xã trưởng, hương lão lão nhiên Trần Quý Công tự là Nhật Chiếu, húy là Lăng, mất ngày 10/3, phần mộ ở rú Nại. Hiện nay con cháu ở về xóm Cống. Thủy Tổ bà là ĐINH THỊ PHÙNG mất ngày 07/5, mộ ở rú Nại. Các Thủy Tổ sinh được 6 người con trai và 1 con gái:
     24-5-1    Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Cách húy là Vịnh sinh 1 người con trai là:
          25-1-1-   Cao Cao Tằng Tổ Trần Đen; (Thất truyền)
     24-5-2    Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Thiên Hương, bản miếu suất đội thăng hiệp Quan quản, cồn trúc Thiên Hương linh ứng sắc phong Linh thủy Trung đẳng tôn thần, sinh hạ được 2 con trai là:
          25-2-1-   Cao Cao Tằng Tổ Trần Lễ.
          25-2-2-   Cao Cao Tằng Tổ Trần Nghĩa.
     24-5-3   Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Văn Xã (Bã) - Mất sớm
    24-5-4    Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Bảo - Linh vị ghi “ĐẠI CHI – 3, CHI 8 ĐÌNH BẢO”, sinh năm 1779, mất ngày 20/8, phần mộ ở rú Nại, sinh hạ được 5 người con trai, cửa trưởng ở xóm Cống.
          25-4-1-   Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Bưu 1802-1879, sinh:
                    26-1-1-   Cao Tằng Tổ Trần Trọng Ngại (Can Nghĩa, 1822-1873) sinh:
                   27-1-1   Tằng Tổ TRẦN ĐÌNH HÒE (Cố Lý 1849-1904) cụ có công đi tìm gốc tích Tổ Tiên lần đi thứ 2 Cụ sinh được 3 người con là: 28-1-1)- Tổ Trần Hoàn; 28-1-2)- Tổ Trần Xanh; 28-1-3)- Tổ Trần Đình Thưởng sinh: 29-3-1 Cụ Trần Đình Duệ sinh: Trần Tuấn, Trần Phi Sinh ; 29-3-2 Cụ Trần Đình Thung;.
                  27-1-2  Tằng Tổ Trần Đình Cửu (Cố Thục) sinh: 28-2-1)- Thi sĩ Tổ TRẦN ĐÌNH ĐỐI cụ có công đi tìm gốc tích Tổ Tiên lần đi thứ 2, Tổ sinh ra: 29-1-1 Cụ Trần Đình Lự sinh: 30-1-1 Ông Trần Đình Lan – Ông là người ghi chép gia phả để lại cung cấp tư liệu cho việc biên soạn cuốn “Gia phả, gia tộc họ Trần”, 30-1-2 Ông Trần Đình Nhân (Ở Giáp Nhất) sinh Trần Tuấn Anh, 29-1-2 Cụ Trần Đình Phong, 29-1-3 Cụ Trần Đình Dật; 29-1-4 Cụ Trần Đình Lục, 29-1-5 Cụ Trần Đình Bé, 29-1-6 Cụ Trần Thị Liễu, 29-1-7 Cụ Trần Thị Năm; 28-1-2)- Tổ Bà giáo Thục; 28-1-3)- Tổ bà Trần Thị Bích; 28-1-4)- Tổ bà Trần Thị Liên;
                27-1-3  Tằng Tổ Trần Nhượng(Cố Hạp) sinh: 28-3-1 Tổ Trần Hạp sinh 29-1-1 Cụ Trần Khâm, 28-3-2 Tổ Trần Cương sinh 29-2-1 Cụ Trần Mai, 28-3-3 Tổ Trần Phái sinh 29-3-1 Cụ Trần Nông; 29-3-2 Cụ Trần Thị Yên; 29-3-3 Cụ Trần Thị Thìn; 29-3-4 Cụ Trần Thị Lạc; 28-3-4 Tổ Trần Hanh.
       27-1-4   Tằng Tổ Trần Thị Hương Cẩm;
   26-1-2-   Cao Tằng Tổ Trần Văn Khoát sinh:
                 27-2-1 Tằng Tổ Trần Khung sinh: 28-1-1 Trần Khiêm sinh: 29-1-1 Cụ Trần Kiều sinh 30-1-1 Ông Trần Lương; 30-1-2 Ông Trần Quyền, 29-1-2 Cụ Trần Đàn ở Thái Nguyên, 29-1-3 Cụ Trần Thị Hoè; 29-1-4 Cụ Trần Thị Huệ;
         27-2-2    Tằng Tổ Trần Khang;
                   27-2-3   Tằng Tổ Trần Trạch (Tức Cố Lai) sinh: 28-3-1 Tổ Trần Trạc sinh: 29-1-1 Cụ Trần Cừ sinh 30-1-1 Ông Trần Sum; 29-1-2 Cụ Trần Khai (vô tự); 29-1-3 Cụ Trần Đoài sinh 30-3-1 Ông Trần Hoàn, 30-3-2 Bà Trần Thị Thìn; 29-1-4 Cụ Trần Đông sinh: 30-1-1 Ông Trần Thịnh, 30-1-2 Ông Trần Bình, 30-1-3 Ông Trần Vĩnh (Nhà cụ Đông ở Thái Nguyên gần nhà Bá Khảo Trần Khắc Tửu tức bác Trần Khắc Hà, vợ cụ Đông là em vợ bác Tửu tức cụ Trần Thị Nự. (Xem thêm trang 181). 28-3-2 Tổ TRẦN VIÊN (Cố Thiển) cụ có công đi tìm gốc tích Tổ Tiên lần đi thứ 3, cụ sinh: 29-2-1 Cụ Trần Liễu sinh 30-1-1 Ông Trần Phước, 30-1-2 Ông Trần Hướng, 30-1-3 Ông Trần Nam, 30-1-4 Bà Trần Thị Hằng, 29-2-2 Cụ Trần Thị Xuân; 28-3-3  Tổ Trần Hiến sinh:  29-3-1 Cụ Trần Thân (Kỹ sư) sinh: 30-1-1 Ông Trần Nam; 29-3-2 Cụ Trần Đường; 29-3-3 Cụ Trần Hải;
        26-1-3-    Cao Tằng Tổ Trần Văn Giao sinh:
                 27-3-1    Tằng Tổ Trần Loan sinh: 28-1-1 Tổ Trần Phan sinh: 29-1-1   Cụ Trần Cầu, 29-1-2  Cụ Trần Dương, 28-1-2 Tổ Trần San; 28-1-3 Tổ Trần Ngũ; 28-1-4 Tổ Trần Lục; 28-1-5 Tổ Trần Tuý; 28-1-6 Tổ Trần Chiên; 28-1-7 Tổ Trần Thập; 28-1-8 Tổ Trần Thiêm; 28-1-9 Tổ TRẦN LIÊM cụ có công đi tìm gốc tích Tổ Tiên lần đi thứ 2;
              26-1-4-    Cao Tằng Tổ Trần Doãn Lan sinh:
             27-4-1   Tằng Tổ Trần Phan;
      27-4-2    Tằng Tổ Trần Xuân (Cố Thiệu) sinh 28-2-1 Tổ Trần Cung;  
        27-4-3   Tằng Tổ Trần Dũng (Cố Thụ).
   26-1-5-   Cao Tằng Tổ Trần Doãn Văn;
   26-1-6-   Cao Tằng Tổ Trần Xuân Ôn sinh:
        27-6-1   Tằng Tổ Trần Bẩy
   26-1-7-   Cao Tằng Tổ Trần Văn Tặng- Cố Ích;
        27-7-1   Tằng Tổ Trần Dục;
        27-7-2   Tằng Tổ Trần Bẩy (Cố Hanh);
          25-4-2   Cao Cao Tằng Tổ Trần Hữu Kính sinh:
   26-2-1-   Cao Tằng Tổ Cố Điếu,
   26-2-2-   Cao Tằng Tổ Trần Mỹ sinh:
                27-2-1   Tằng Tổ Trần Hiền sinh: 28-1-1 Tổ Trần Diên sinh: 29-1-1
Cụ Trần Mậu sinh: 30-1-1 Ông Trần Tiến, 30-1-2 Bà Trần Thị Phương, 30-1-3 Bà Trần Thị Nhung; 28-1-2 Tổ Trần Y sinh: 29-2-1 Cụ Trần Vy sinh: 30-1-1 Ông Trần Quyền, 30-1-2 Ông Trần Hào, 30-1-3 Ông Trần Hiệp, 30-1-4  Bà Trần Thị Quý, 30-1-5  Bà Trần Thị Hòa; 28-1-3  Tổ Trần Tuyền sinh: 29-3-1 Cụ Trần Khả, 29-3-2 Cụ Trần Năng, 29-3-3 Cụ Trần Đức, 29-3-4 Cụ Trần Trí.
       27-2-2    Tằng Tổ Trần Kỳ sinh: 28-2-1 Tổ Trần An,
          25-4-3   Cao Cao Tằng Tổ Trần Văn Đàm sinh:
              26-3-1-    Cao Tằng Tổ Trần Minh;
                  27-1-1   Tằng Tổ Trần Bình 
                  27-1-2   Tằng Tổ Trần Hách
              26-3-2-    Cao Tằng Tổ Trần Lương.
                 27-2-1   Tằng Tổ Trần Hậu sinh: 28-1-1  Tổ Trần Mâu, 28-1-2  Tổ Trần Tứ, 28-1-3  Tổ Trần Siêu.
          25-4-4   Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Thụ sinh hai nữ.
          25-4-5   Cao Cao Tằng Tổ Trần Hữu Đạo sinh:
   26-5-1-   Cao Tằng Tổ Trần Ân (Cố Lư)
                   27-1-1  Tằng Tổ Trần Lư sinh: 28-1-1 Tổ Trần Thịnh sinh 29-1-1 Cụ Trần Bình, 29-1-2 Cụ Trần Thìn.
                   27-1-2  Tằng Tổ Trần Thưởng sinh: 28-2-1 Tổ Trần Thiều sinh 29-1-
1 Cụ Trần Thắng, 28-2-2 Tổ Trần Đông (liệt sĩ).
     24-5-5    Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Phu - Linh vị ghi “ĐẠI CHI – 3, CHI 9 ĐÌNH PHU”, sinh được một người con trai là:
          25-5-1   Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Vinh sinh:
   26-1-1  Cao Tằng Tổ Trần Đình Phàn (Cố Nghĩa Phàn) sinh:
                    27-1-1   Tằng Tổ Trần Đình Phàn sinh: 28-1-1 Tổ Trần Liên sinh: 29-1-1 Cụ Trần Quý sinh: 30-1-1 Ông Trần Đức, 30-1-2 Ông Trần Lương.
                   27-1-2   Tằng Tổ Trần Đình Chỉ sinh: 28-2-1 Tổ Trần Đình Chỉ.
                      27-1-3   Tằng Tổ Trần Đình Đại sinh: 28-3-1 Tổ Trần Đình Đại sinh: 29-1-1 Cụ Trần Đình Đài sinh: 30-1-1 Ông Trần Khuê, 30-1-2 Ông Trần Hoàn; 29-1-2 Cụ Trần Đình Lài sinh: 30-2-1 Ông Trần Đình Bính, 30-2-2 Ông Trần Minh, 30-2-3 Ông Trần Văn Tô;                  
     24-5-6   Cao Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Hàm sinh 1 con gái là:
           25-6-1-    Cao Cao Tằng Tổ Trần Thị Tư (Thu) lấy về họ Nguyễn chính thất;
23-1-6   Tam Đại Thủy Tổ TRẦN THỊ BẢN - Bản phụ hiệu sinh, Nguyễn chính thất (Lấy về họ cụ Hường);




                 ĐỜI THỨ - 23
  TAM ĐẠI THỦY TỔ KHẢO
  TRẦN BÁ HUÂN
       ĐẠI CHI – 1

              ĐỆ TAM ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN BÁ HUÂN - Tiền Lê bản phủ hiệu hiệu sinh, kiêm Bản Tổng, Chánh Tổng trưởng TRẦN QUÝ CÔNG tự là BÁ HUÂN, Hạnh lâm đường linh ứng, sắc phong Binh phù Dực bảo Trung hưng, linh phù tôn thần. Ngài có sắc phong của triều Nguyễn, trong Linh vị thờ có ghi: “Tiền Lê Hạnh lâm đường, bản phủ hiệu sinh, bản tổng chánh tổng, Trần Tiên Công tự Bá Huân, sắc phong vinh phù dực bảo trung hưng Thần vị”.
Tam Đại Thủy Tổ Khảo Trần Bá Huân mất ngày 25/9, phần mộ ở núi Eo địa phận làng Văn Giang.
       Tam Đại Thủy Tổ Tỉ ĐINH THỊ Hạng Nhất phu nhân, húy là KHIÊM, mất ngày 08/5, phần mộ ở mái dương núi Nại gần mộ Nhị Đại Thủy Tổ Tỉ Nguyễn Thị Duyên.
       Họ ta ngày 15/01 năm Đinh Tị (Tức ngày 04-3-1977) đã rước mộ Cụ Tam Đại Thủy Tổ Khảo Trần Bá Huân và Tam Đại Thủy Tổ Tỉ về núi Nại trong khu mộ Thủy Tổ họ Trần ta, Cụ Tam Đại Thủy Tổ Khảo Trần Bá Huân được thờ và có Linh vị thờ trong nhà thờ lớn Đại Tôn họ Trần xã Sơn Thịnh.       
           Hai Cụ Tam Đại Thủy Tổ đã sinh được 9 người con trai và 2 người con gái, nay ở nhà thờ họ có bài vị của 6 chi. Cụ thể các con của Ngài là:
24-1-1   Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN ĐÌNH BIỂU- Chi 1: Bản xã xã chánh y đạo Trùm trưởng, làm quan ở triều Lê đến tước hầu, Tổ húy là Siêu, Long, hiệu ông già Kiên, sinh năm 1760 tức Canh Thìn đời vua Lê Anh Tông niên hiệu Cảnh Hưng thứ 1, mất ngày 01/7 năm Ất Mùi, tức 05-8-1835 thọ 76 tuổi, Cao Cao Cao Tằng Tổ bà PHAN THỊ NIÊN hiệu TỪ PHÚC là chính phu nhân, mất ngày 03/7 thọ 73 tuổi, phần mộ táng song hồn ở cầu Gôm, xứ Cồn Trảo, Cồn Lội. Tổ sinh được 3 người con trai và 3 con gái:
     25-1-1  Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Trùm, sinh 6 người con trai:
          26-1-1-  Cao Tằng Tổ Trần Đình Ninh sinh:
 27-1-1)   Tằng Tổ Trần Đình Tiêm (Huy) sinh 9 người con:
      28-1-1)   Tổ Trần Đình Ngân sinh 8 người con:
         29-1-1)  Cụ TRẦN ĐÌNH VƯỢNG tức cụ Ngôn có công đi tìm gốc tích Tổ Tiên lần đi thứ 3, cụ sinh 4 người con là: 2 trai và 2 gái: 30-1-1- Ông Trần Hải bà là Hà Thị Đức sinh 4: 31-1-1)Trần Thanh Sơn, 2)Trần Thanh Bình, 3)Trần Thanh Tường, 4)Trần Thị Thanh Tâm); 30-1-2-  Ông Trần Liệt Oanh(1926), ông đã cung cấp một số ảnh tư liệu để đưa vào cuốn “Gia phả, gia tộc họ Trần” ông bà sinh 2 Trai, 3 gái: 31-2-1) Trần Liệt Thanh sinh: 32-1-1Trần Hoàng Thịnh; 2) Trần Thị Thanh Hà; 3) Thị Thanh Hương; 4) Thị Thu Lan; 5) Trần Tuấn Anh (Làm ở BHXH VN); 30-1-3- Bà Trần Thị Yên (tảo vong); 30-1-4- Bà Trần Thị Huyên (tảo vong); 29-1-2) Cụ Trần Đình Ôn; 29-1-3) Cụ Trần Đôn; 29-1-4) Cụ Trần Viên; 29-1-5) Cụ Trần Thị Quế; 29-1-6)  Cụ Trần Thị Thống; 29-1-7) Cụ Trần Thị Nhỏ (Cụ Nhỏ là vợ cụ Đậu Phan và là chị dâu cả của Hiền Tỉ Đậu Thị Lan); 29-1-8) Cụ Trần Thị Tiểu ở Phan Thiết.
                  28-1-2)  Tổ Trần Đình Nghiêm sinh: 29-2-1) Cụ Trần Đình Liêm;
                 28-1-3)                  Tổ Trần Đình Tiêu, sinh 2 là: 29-3-1) Cụ Trần Đình Dương; 29-3-2) Cụ Trần Đình Tam.  
                 28-1-4)    Tổ Trần Đình Tám (Vinh) sinh: 29-2-1) Cụ Trần Xuân Lập ở Hương Khê;
                  28-1-5) Tổ Trần Chương;                       
                  28-1-6) Tổ Trần Đính;
                  28-1-7) Tổ Trần Thị Tiêm;
                  28-1-8) Tổ Trần Thị Chắt Phác;              
                  28-1-9) Tô Trần Thị Hiến; 
         26-1-2   Cao Tằng Tổ Trần Đình Noãn;   
         26-1-3   Cao Tằng Tổ Trần Đình Cán.
         26-1-4   Cao Tằng Tổ Trần Đình Tĩnh;    
         26-1-5   Cao Tằng Tổ Trần Đình Sáu;
         26-1-6   Cao Tằng Tổ Trần Đình Bẩy;
     25-1-2   Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Giá sinh 7 trai và 2 gái:
         26-2-1)   Cao Tằng Tổ Trần Đình Thôn sinh:
             27-1-1)    Tằng Tổ Trần Đình Phiên sinh;
   28-1-1)   Tổ Trần Hưng sinh 3 con: 29-1-1) Cụ Trần Duật; 29-1-2) Cụ Trần Hữu Thâm; 29-1-3) Cụ Trần Bát.
    28-1-2)   Tổ Trần Đạt sinh: 29-2-1) Cụ Trần Thị Chương lấy chồng ở
Sơn Lễ; 29-2 -2) Cụ Trần Thị Minh lấy chồng ở Sơn Châu; 29-2-3) Cụ Trần Thị
Nhỏ lấy chồng ở Đức Tân - Đức Thọ; 29-2-4) Cụ Trần Văn Cầu vợ cả sinh Trần Quốc Hùng liệt sĩ, vợ hai sinh 2 gái một trai là: Bà Trần Thị Hòa, bà Trần Thị Minh, ông Trần Cường sinh 2 con: 1 trai, 1 gái.
              27-1-2)    Tằng Tổ Trần Đình Doãn (Thường gọi là cố Trung) sinh:
               28-2-1)  Tổ Trần Đình Trung 1879- Tổ bà cả Hồ Thị Ba sinh: 29-1-1) Cụ Trần Văn Mai 1909; 29-1-2) Cụ Trần Văn Bích 1911; 29-1-3) Cụ Trần Thị Em 1913; 29-1-4) Cụ Trần Thị Tiến 1915; 29-1-5) Cụ Trần Thượng Định 1925, sinh 6 người con; - Tổ bà hai là Hà Thị Em sinh 3 con trai: 29-1-6) Cụ Trần Tùng 1913 vợ là cụ Lưu Thị Yêm1915 sinh: 30-6-1 Ông TRẦN THANH TỊNH (1937)–Ông hiện là trưởng ban liên lạc họ Trần Sơn Thịnh ở Hà Nội (2017) và trong ban biên soạn gia phả của họ. Vợ là Vũ Thị Phương 1951 sinh 2 con trai là: 31-1-1)Trần Thanh Sơn 1974 vợ là Hà Thị Phương sinh năm 1984 sinh 2 con gái là Phương Anh và Phương Linh; 31-1-2)Trần Quốc Thịnh 1976 vợ là Đặng Thị Nhung sinh năm 1980 sinh một con trai Trần Mạnh Đức. 30-6-2) Bà Trần Thị Thìn 1940; 30-6-3) Ông Trần Đình Quý 1943; 30-6-4) Bà Trần Thị Thanh Xuân 1949; 30-6-5) Ông Trần Đình Mão 1951 vợ là Đậu Thị Bính; 30-6-6)  Bà Trần Thị Thanh Hòa 1954;  29-1-7) Cụ Trần Thượng Võ sinh năm 1916, sinh được 7 người con; 29-1-8) Cụ Trần Thượng Hợp sinh năm 1923, sinh được 4 người con.      
                  28-2-2)   Tổ Trần Nhật Đạt có 5 người con;             
                  28-2-3)   Tổ Trần Đình Lục;
                  28-2-4)   Tổ Trần Đình Tăng, sinh năm 1901, có con là: 29-4-1 Cụ Trần Văn Bé sinh 1935 (Ất Hợi), Giáo sư, Tiến sĩ, Viện trưởng Viện Huyết học TP Hồ Chí Minh – Anh hùng Lao động
                   28-2-5)   Tổ Trần Đình Các, sinh 1903;
                   28-2-6)   Tổ Trần Thị Vỵ;
                   28-2-7)   Tổ Trần Thị Ba;         
              27-1-3)    Tằng Tổ Trần Đình Tiêm sinh:
                   28-3-1)   Tổ Trần Đình Phúc;
          26-2-2)   Cao Tằng Tổ Trần Đình Vấn>Sinh 6 người con là: ( 3 trai, 3 gái)
              27-2-1)   Tằng Tổ Trần Liên - Cụ sinh được:
                   28-1-1   Tổ Cán Trinh.
              27-2-2)    Tằng Tổ Cố Trần Xân sinh: 
                   28-2-1   Tổ Trần Tuy.
              27-2-3)    Tằng Tổ Cố Trần Vinh sinh:
             28-3-1   Tổ Trần Kiên (Cố Hy) 1896 sinh 3 người con: 29-1-1)  Cụ TRẦN ĐƯỜNG - Nguyên trưởng ban liên lạc họ Trần xã Sơn Thịnh ở Hà Nội, và là trưởng ban chỉ đạo biên soạn cuốn “GIA PHẢ, GIA TỘC HỌ TRẦN”. Chi họ của cụ phụng cúng tấm bia “ĐỜI ĐỜI HIỂN VINH” gắn ở nhà thờ họ ta  Cụ sinh ngày 08-10-1919 mất 2011, có ba vợ sinh được: 30-2-1) Ông Trần Đệ sinh ba gái; 30-2-2) Ông Trần Cương sinh Quân và Quốc; 30-2-3) Ông Trần Lương sinh Trần Thị Thu; 30-3-4) Bà Trần Thị Hạnh; 30-3-5) Bà Trần Thị Phúc; 30-3-6) Bà Trần Thị Kim Thanh; 30-3-7) Bà Trần Thị Thanh Bình; 29-1-2)  Cụ Trần Thị Miên - Mất sớm; 29-1-3)  Cụ Trần Thị Nhâm.
            28-3-2   Tổ Trần Kiền vợ là Tống Thị Định sinh: 29-2-1) Cụ Trần Quế; 29-2-2) Cụ Trần Thị Nga;
             28-3-3   Tổ Trần Huyên mất sớm;
             28-3-4   Tổ Trần Thị Hiên (Cụ Mai) chồng Tống Mai;
             28-3-5   Tổ Trần Thị Yên chồng là Hà Vượng;
        27-2-4)   Tằng Tổ Cố bà Vấn;
        27-2-5)   Tằng Tổ Cố bà Trưởng;
        27-2-6)   Tằng Tổ Cố bà Hòe.
    26-2-3)   Cao Tằng Tổ Nghĩa Định (Bích) sinh :
        27-3-1)   Tằng Tổ Trần Hảo (Cán Hảo) sinh:
             28-1-1)   Tổ Trần Nguyên Hanh;
             28-1-2)   Tổ Trần Cầm;
            28-1-3)  Tổ Trần Xuân Đàm(Trần Kiểu) sinh: 29-3-1- Cụ TRẦN XUÂN KIỀU- Đại tá, cụ là phó ban liên lạc họ Trần ở Hà Nội, là thành viên trong ban biên soạn, cụ và tôi đính chính lại cuốn“Gia phả, gia tộc họ Trần”; 29-3-2 Cụ Trần Xuân Cát; 29-3-3 Cụ Trần Văn Bút, 29-3-4 Cụ Trần Xuân Toàn; 29-3-5 Cụ Trần Thị Đoàn; 29-3-6 Cụ Trần Thị Hoàn; 29-3-7 Cụ Trần Xuân Thành; 29-3-8 Cụ Trần Xuân Tường; 29-3-9 Cụ Trần Thị Hiền; 29-3-10 Cụ Trần Thị Lành; 29-3-11 Cụ Trần Thị Bàng; 29-3-12 Cụ Trần Thị Tùng
             28-1-4)   Tổ Trần Xuân Cận;
    26-2-4)   Cao Tằng Tổ Nghĩa Toan;
    26-2-5)   Cao Tằng Tổ Nghĩa Lan;
    26-2-6)   Cao Tằng Tổ Trần Bình sinh:
         27-6-1   Tằng Tổ Trần Khang sinh:
             28-1-1)   Tổ Trần Hoán;
         27-6-2   Tằng Tổ Trần Hiếu sinh:
             28-2-1)   Tổ Trần Đản;
         27-6-3   Tằng Tổ Trần Hương Hưng sinh:
             28-3-1)   Tổ Trần Hiên;
             28-3-2)   Tổ Trần Tuyên;
    26-2-7)   Cao Tằng Tổ Trần Hiểu;
    26-2-8)   Cao Tằng Tổ Trần Thị Nông lấy chồng họ Lê;
    26-2-9)   Cao Tằng Tổ Trần Thị … lấy chồng họ Đặng;
    25-1-3  Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Ngự  vô tự, thờ ở chi 5 Trần Đình Vưu                   Trưởng chi Trần Đình Ngôn phụng sự.
24-1-2-  Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN ĐÌNH VÂN – Chi 2: Tổ là hương lão lão nhiêu tự Đình Vân, húy là Tiệu, sinh được 4 người con trai và 3 con gái:
     25-2-1  Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Chính, trưởng tộc là cụ Trần Khắc Thiện Đời thứ 9/29 phụng sự.
     25-2-2  Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Bình, sinh:
          26-2-1)   Cao Tằng Tổ Trần Đoan.
     25-2-3  Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Bảo.
     25-2-4  Cao Cao Tằng Tổ Trần Trọng Huynh.
    Trưởng chi Trần Đoan phụng sự.
 24-1-3-   Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN Đ - Thất truyền;
24-1-4-  Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN KHẮC XƯƠNG - Chi 3, Cụ húy là Thịnh, sinh được 4 người con trai:
     25-4-1   Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Nghi, sinh:
          26-1-1   Cao Tằng Tổ Trần Đình Thạc sinh:
               27-1-1)   Tằng Tổ Trần Duyệt
     25-4-2     Cao Cao Tằng Tổ Trần Khắc Thuật sinh:
          26-2-1   Cao Tằng Tổ Trần Thương sinh:
               27-1-1)   Tằng Tổ Trần Triên (Tiến)
     25-4-3   Cao Cao Tằng Tổ Trần Khắc Khoan;
     25-4-4   Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Tế;
     Trưởng chi Trần Thuyết phụng sự, nay trưởng Tôn ông Trần Nuôi đã di cư lên xã Sơn Thủy, việc họ do ông Trần Phúc đại diện ở quê nhà.
 24-1-5    Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN ĐỨC VƯU sinh 2 con gái: Một về họ Lê chính thất, là mẹ quan huyện Đông triều và một về họ Hà chính thất là mẹ Quan huấn họ Hà là ông Hàn Bã.
 24-1-6   Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN KHÁNH DUỆ - Chi 4, cụ tên húy là Lựu sinh được 13 con trai và 4 con gái, con trai là:
     25-6-1     Cao Cao Tằng Tổ Trần Huy, hiện nay Tôn trưởng là ông Trần Dũng ở xóm Đông xã Sơn Thịnh ta.
     25-6-2     Cao Cao Tằng Tổ Trần Khai
     25-6-3     Cao Cao Tằng Tổ Trần Công Lý, húy là Ngâng
     25-6-4     Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Bá
     25-6-5     Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Hạnh
     25-6-6     Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Hòe
     25-6-7     Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Liệu
     25-6-8     Cao Cao Tằng Tổ Trần Hòa
     25-6-9     Cao Cao Tằng Tổ Trần Hỷ
     25-6-10   Cao Cao Tằng Tổ Trần Đắc
     25-6-11   Cao Cao Tằng Tổ Trần Kiều
     25-6-12   Cao Cao Tằng Tổ Trần Lư
     25-6-13   Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Quế (Ba Đông), sinh:
          26-13-1   Cao Tằng Tổ Trần Tuy sinh:
               27-1-1)   Tằng Tổ Trần Văn sinh:
                   28-1-1    Tổ Trần Chương sinh: 29-1-1 Cụ Trần Hùng (liệt sĩ); 29-1-2 Cụ Trần Dũng sinh: 30-2-1) Ông Trần Đắc; 30-2-2) Ông Trần Cần; 30-2-3) Ông Trần Cả; 30-2-4) Ông Trần Dư và 3 nữ. 
                 28-1-2    Tổ Trần Bàng sinh: 29-2-1 Cụ Trần Nghĩa (liệt sĩ); 29-2-2 Cụ Trần Danh; 29-2-3 Cụ Trần Dương; và 3 nữ.
          26-13-2   Cao Tằng Tổ Trần Cát Tường sinh:
               27-2-1)    Tằng Tổ Trần Cát Khang sinh:
                  28-1-1    Tổ Trần Hiên sinh: 29-1-1) Cụ Trần Thành sinh: 30-1-1 Ông Trần Đạt; 30-1-2 Bà Trần Thị Hồng; 30-1-3  Bà Trần Thị Hà.
24-1-7    Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN ĐÌNH CỔ - Chi 5: Tên húy của cụ là Trạng, là xã trưởng, cụ mất ngày 28-02, Tổ bà là PHAN THỊ ĐIỀM, Cụ mất ngày 11/7, sinh được 3 người con trai:
     25-7-1    Cao Cao Tằng Tổ Trần Khắc Tuấn (Minh), Cao cao tằng tổ bà là Đinh Thị Ky, mất 16/6, cụ sinh được:
          26-1-1   Cao Tằng Tổ Trần Khắc Dinh  sinh:
               27-1-1)   Tằng Tổ Trần Bích - Tuyệt tự;
               27-1-2)   Tằng Tổ Trần Tích sinh:
                    28-2-1   Tổ Trần Thị Hương;
                    28-2-1   Tổ Trần Thị Liên;
          26-1-2   Cao Tằng Tổ Trần Hàn Châu (Cố Trùm Vấn) sinh:
                27-2-1)     Tằng Tổ TRẦN ĐỨC NGHỊ - Cụ là người đi hỏi, tìm được gốc Tổ họ Trần làng Thịnh Xá chúng ta ở huyện Yên Thành,  tỉnh Nghệ An, Cụ sinh được 5 người con là:
                 28-1-1  Tổ Trần Đình Nại, Tổ bà là Bùi Thị Xuân sinh 8 người con: 29-1-1 Cụ Trần Đình Khôi sinh: 30-1-1 Ông Trần Huân; 30-1-2 Ông Trần Hùng; 29-1-2 Cụ Trần Đình Đa sinh: 30-2-1 Ông Trần Hải; 30-2-2 Bà Trần Thị Hoàng; 29-1-3 Cụ Trần Thị Bá; 29-1-4 Cụ Trần Thị Khánh; 29-1-5 Cụ Trần Thị Lạng; 29-1-6 Cụ Trần Thị Hòa; 29-1-7 Cụ Trần Thị Phước; 29-1-8 Cụ Trần Thị Nha.
                    28-1-2   Tổ Trần Đình Đang sinh Trần Đình Anh mất lúc 4 tuổi;
                     28-1-3   Tô TRẦN ĐÌNH DỤC: Cố Dục là người góp công đức rất nhiều nên nhà thờ họ Trần ta ở Sơn Thịnh ngày nay được chỉnh trang tu sửa rất đẹp. Đường vào nhà thờ được mở rộng và bê tông hóa. Cố Dục là tác giả chính trong biên soạn cuốn “GIA PHẢ, GIA TỘC HỌ TRẦN”. Cụ và gia tộc của cụ phụng cúng tấm bia: “HÀO KHÍ ĐÔNG A” gắn ở nhà thờ. Cố Dục đã mất năm 2012 hưởng thọ 97 tuổi, Cố Dục sinh được 5 người con là: 29-3-1) Cụ Trần Định; 29-3-2) Cụ Trần Long (Học vị Tiến sĩ) sinh: 30-2-1 Ông Trần Long Vân; 30-2-2 Bà Trần Nguyệt Viên; 30-2-3 Bà Trần Nguyệt Hằng; 29-3-3) Cụ Trần Thị Bạch Mai; 29-3-4) Cụ Trần Thị Thanh Mai; 29-3-5) Cụ Trần Thị Hoàng Mai.
                    28-1-4   Tổ Trần Thị Phong;
                    28-1-5   Tổ Trần Thị Châu;
               27-2-2)   Tằng Tổ Trần Thân (Thiện) sinh:
                     28-2-1    Tổ Trần Chín sinh 2 trai là: 29-1-1) Cụ Trần Lưu sinh 6 con là: 30-1-1 Ông Trần Quảng; 30-1-2 Ông Trần Trọng; 30-1-3 Ông Trần Quang; 30-1-4  Bà Trần Thị Luyện, 30-1-4  Bà Trần Thị Hồng, 30-1-4  Bà Trần Thị Hiền; 29-1-2) Cụ Trần Lộc - Liệt sĩ.

                      25-7-2    Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Quận;

     25-7-3    Cao Cao Tằng Tổ Trần Đình Thảo;
           Trưởng chi Trần Tích phụng sự.

24-1-8   CAO CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO TRẦN BÁ PHẤN - Cụ thuộc Đại Chi 1 - Chi 6: Là Cụ Cao Cao Cao Tằng Tổ Khảo đời thứ 4/24 của chi họ chúng ta, Cụ CAO CAO CAO TẰNG TỔ TỈ NGUYỄN THỊ THUẦN, các cụ sinh được 5 người con trai và 2 người con gái, gồm các cụ là: Trần Đình Phong, Trần Đình Cử, Trần Đình Nhậm, Trần Duy Đức, Trần Trọng Mưu và còn hai cụ bà không biết tên, cụ thể sẽ trình bầy ở phần sau.
24-1-9   Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN DUY MINH;
24-1-10   Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN THỊ NHÔNG sinh Cao Cao Tằng Tổ Trần Thị Thành;
24-1-11   Cao Cao Cao Tằng Tổ TRẦN THỊ THANH;





                     ĐỜI THỨ - 24
     CAO CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO
    TRẦN BÁ PHẤN
  CHI  6




        ĐỜI THỨ - 25
       CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO
     TRẦN ĐÌNH CỬ
       CHI – 2



                                    ĐỜI THỨ – 26
       CAO TẰNG TỔ KHẢO
      TRẦN ĐỨC MỸ
             TRƯỞNG CHI – 1





           ĐỜI THỨ – 2
TẰNG TỔ KHẢO
 TRẦN XUÂN CẨM
         CHI – 3




          ĐỜI THỨ - 28

        TỔ KHẢO
         TRẦN KHẮC TRI
           TRƯỞNG CHI – 1





LƯỢC BẢN TIỀN BIÊN
GIA PHẢ HỌ TRẦN Ở LÀNG THỊNH XÁ
(Thịnh Xá ngày nay là xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh)
   Đ
  Ờ
  I
        TỔ KHẢO
        TỔ TỈ  
        CÁC NGƯỜI CON
       GHI CHÚ


   21
        NHẤT
       ĐẠI THỦY
      TỔ KHẢO
       TRẦN
      ĐĂNG
      NHÀN
       Sinh khoảng năm 1700,
mất 16/7.
       NHẤT
       ĐẠI THỦY TỔ TỈ
      TRẦN CHÍNH THẤT
        LÊ THỊ

         22-7-1 Trần Trọng Tưởng
         22-7-2 Trần Nhị Linh
         22-7-3 Trần Tam Linh
         22-7-4 Trần Tứ Linh
         22-7-5 Trần Trọng Tấn
         22-7-6 Trần Trọng Tiến



         
         - Thất truyền
         - Khuyết
          - Thất truyền
         - Thất truyền
    - Không tìm được


   22
       NHỊ ĐẠI
         THỦY TỔ KHẢO
      TRẦN TRỌNG TƯỞNG
     Mất 08/6
        NHỊ ĐẠI THỦY TỔ
 TỈ
         NGUYỄN THỊ
          DUYÊN
Mất 11/3
         23-1-1 Trần Bá Huân
         23-1-2 Trần Trọng Đăng
         23-1-3 Trần Trọng Tụy
         23-1-4 Trần Đình Đồng(1)

         23-1-5 Trần Nhật Chiếu
         23-1-6 Trần Thị Bản
         - Đại chi I     - Đại chi II
           - Khuyết
          - Đời con thất truyền.
          - Đại chi III





   23

       TAM ĐẠI
       THỦY TỔ 
       KHẢO
       TRẦN
      BÁ
       HUÂN
      Mất 25/9

        TAM ĐẠI
        THỦY TỔ
        TỈ
         ĐINH
       THỊ
         KHIÊM
Mất 08/5
         24-1-1 Trần Đình Biểu
         24-1-2 Trần Đình Vân
         24-1-3 Trần Đỗ
         24-1-4 Trần Khắc Xương
         24-1-5 Trần Đức Vưu
         24-1-6 Trần Khánh Duệ
         24-1-7 Trần Đình Cổ
         24-1-8 Trần Bá Phấn
         24-1-9 Trần Duy Minh
         24-1-10 Trần Thị Nhông
         24-1-11 Trần Thị Thanh
          - Chi 1
          - Chi 2
          - Thất truyền
          - Chi 3
          - Thất truyền
          - Chi 4
          - Chi 5
          - Chi 6
          - Vô tự


    24
       CAO CAO CAO
       TẰNG TỔ KHẢO
        TRẦN BÁ PHẤN
       Mất 20/5
        CAO CAO CAO
      TẰNG TỔ
      TỈ
        NGUYỄN THỊ THUẦN
        Mất 20/02

         25-8-1 Trần Đình Phong
         25-8-2 Trần Đình Cử
         25-8-3 Trần Đình Nhậm
         25-8-4 Trần Duy Đức
         25-8-5+6 Hai cụ bà (2) 

             

         
         - Thất truyền
     (2)Hai cụ bà không dõ tên đều về họ Lê



     25
       CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO
         TRẦN
         ĐÌNH
        CỬ
        Mất 26/02
         CAO CAO TẰNG TỔ TỈ
         NGUYỄN THỊ
         KHIÊM
Mất 19/5
         26-2-1 Trần Đức Mỹ
         26-2-2 Trần Văn Nhạ
         26-2-3 Trần Trọng Mưu
         26-2-4 Trần Văn Nhạc
         26-2-5 Trần Thị …..     (3)
         26-2-6 Trần Thị …..     (3)
         26-2-7 Trần Thị …..     (3)


         - Mất sớm

     (3) Ba cụ bà không dõ tên và mộ ở đâu




          26
        CAO TẰNG TỔ KHẢO
         TRẦN  ĐỨC MỸ
          Sinh năm 1830 (Canh Dần), mất 06/11 Tân Mão (tức 06-12-1891)
         CAO TẰNG 
       TỔ TỈ
         HÀ THỊ HẠNG NHẤT
         Mất 20/4 và Cao Tằng Tổ thứ Tỉ
         LÊ THỊ HẠNG TỨ Mất 22/5
         27-1-1 Trần Đình Khoán
         27-1-2 Trần Bá Đính
         27-1-3 Trần Xuân Cẩm
         27-1-4 Trần Đình Bân
         27-1-5 Trần Cường
         27-1-6 Trần Đình Ngan (Xan)
         27-1-7 Trần Mười Nậy
         27-1-8 Trần Mười Con
         27-1-9 Trần Thị Xang
         27-1-10 Trần Thị Tú Thân



           - Mất sớm



          - Mất sớm
          - Mất sớm




          27
         TẰNG TỔ KHẢO
        TRẦN
       XUÂN CẨM
       Sinh 1856, Bính Thìn,
        mất 14/02
        Kỷ Mùi (tức ngày 15-3-1919)
          TẰNG TỔ TỈ
         HÀ
         THỊ  Ý
        Sinh 1861 Tân Dậu, mất 03/01 Giáp Thân (tức ngày 27-01-1944)
         28-3-1 Trần Kỳ
         28-3-2 Trần Khắc Trạch
         28-3-3 Trần Khắc Tri (Chon)
         28-3-4 Trần Khắc Hoành
         28-3-5 Trần Khắc Mại
         28-3-6 Trân Thị Trùm
         28-3-7 Trần Thị Bát
         28-3-8 Trần Thị Em Con
         28-3-9 Trần Thị Cửu
         - Mất sớm
         - Thất truyền
         - Cửa tộc trưởng



          
           - Bà Cô Tổ
          - Bà Cô Tổ




           28  
         TỔ KHẢO
      TRẦN
        KHẮC TRI (CHON) Sinh năm 1895 (Ất Mùi),
        mất 01/6 Đinh Sửu, tức ngày 08-7-2037.
       TỔ TỈ
          NGUYỄN THỊ CHẮT
        sinh 1896 (Bính Ngọ), mất ngày 10/12 Tân Sửu, tức 15-01-1962.
         29-3-1 Trần Khắc Hà       
            29-3-2 Trần Khắc Thành
         29-3-3 Trần Đức Thịnh
         29-3-4 Trần Khắc Tửu (Hà)       
         29-3-5 Trần Đình Phú(*)
         29-3-6 Trần Đình Quý
         29-3-7 Trần Khắc Thêm 
          (**)
         29-3-8 Trần Thị Dượng
         29-3-9 Trần Thị Dục



         - Thất tích
         - Thất truyền
           
    - Mất sớm












PHẦN THỨ  IV


    GIA TỘC HỌ TRẦN

CHI 3


ĐỆ NHẤT HIỀN KHẢO
TRẦN ĐÌNH PHÚ
ĐỜI THỨ - 1/9/29

ĐỆ NHỊ ÔNG 
TRẦN ĐÌNH VIỆT
ĐẠI CHI 1 - ĐỜI THỨ 2/10/30







NHỮNG NGÀY GIỖ TỔ

      Phần 1
1-   THỦY TỔ KHẢO TRẦN THỪA mất 18/01 năm Giáp Ngọ (1234).
2-    THỦY TỔ KHẢO TRẦN CẢNH mất 01/4 năm Bính Tí (1276)
3-   THỦY TỔ KHẢO TRẦN QUANG KHẢI mất 03/7 Giáp Ngọ
4-    THỦY TỔ KHẢO TRẦN NGUYÊN ĐÁN mất 14/11 Canh Ngọ (1390)
      Phần 2
1-   26/10              THỦY TỔ KHẢO TRẦN NGUYÊN HÃN
       01/02             Ngày lễ hội tại đền Trần Tả Tướng ở Lập Thạch Vĩnh Phúc
2-   15/7/1519      THỦY TỔ KHẢO TRẦN PHÁP ĐỘ
       18/3               Ngày lễ hội tại đền thờ THỦY TỔ KHẢO thôn Đan Trung 
3-   27/3              THỦY TỔ KHẢO TRẦN THIỆN TÍNH
      27/3              THỦY TỔ TỈ LÊ THỊ TAM NƯƠNG hiệu Từ Phúc  
4-   14/8              THỦY TỔ KHẢO TRẦN CHÂN THIÊN
      04/5              THỦY TỔ TỈ THÁI THỊ TỪ NƯƠNG
5-   23/10/1613   THỦY TỔ KHẢO TRẦN THỌ
      23/3              THỦY TỔ TỈ TRẦN THỊ ĐÀI   
6-   01/7/1635     THỦY TỔ KHẢO TRẦN VĂN NGẠN
      03/7              THỦY TỔ TỈ PHAN THỊ NIÊN
7-   16/8              THỦY TỔ KHẢO TRẦN TUẤN KIỆT
      15/6              THỦY TỔ TỈ PHAN THỊ THIỆN
8-   27/3/1691     THỦY TỔ KHẢO TRẦN ĐĂNG DINH
      24/5/1659     THỦY TỔ TỈ NGUYỄN THỊ QUÝ 
9-   12/3              THỦY TỔ KHẢO TRẦN ĐĂNG DUNG
      01/10            THỦY TỔ TỈ LÊ THỊ ĐỊNH
10-   05/5            THỦY TỔ KHẢO TRẦN ĐĂNG CHẤT
                           THỦY TỔ TỈ TRẦN CHẮC THẤT
      Phần 3
1-   14/7     CỤ NHẤT ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN ĐĂNG NHÀN
                  CỤ NHẤT ĐẠI THỦY TỔ TỈ LÊ THỊ
2-   08/6     CỤ NHỊ ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN TRỌNG TƯỞNG
      11/3     CỤ NHỊ ĐẠI THỦY TỔ TỈ NGUYỄN THỊ DUYÊN
3-   25/9     CỤ TAM ĐẠI THỦY TỔ KHẢO TRẦN BÁ HUÂN
      08/5     CỤ TAM ĐẠI THỦY TỔ TỈ ĐINH THỊ KHIÊM


4-   20/5     CỤ CAO CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO TRẦN BÁ PHẤN
      20/02   CỤ CAO CAO CAO TẰNG TỔ TỈ NGUYỄN THỊ THUẦN
5-   26/02   CỤ CAO CAO TẰNG TỔ KHẢO TRẦN ĐÌNH CỬ
        19/5   CỤ CAO CAO TẰNG TỔ TỈ NGUYỄN THỊ HẠNG NHẤT
6-   06/11/1891   CỤ CAO TẰNG TỔ KHẢO TRẦN ĐỨC MỸ
      20/4              CỤ CAO TẰNG TỔ TỈ HÀ THỊ HẠNG NHẤT
      22/5              CỤ CAO TẰNG TỔ TỈ (bà hai) LÊ THỊ HẠNG TỨ
7-   03/01/1944   CỤ TẰNG TỔ KHẢO TRẦN XUÂN CẨM
      14/02/1919   CỤ TẰNG TỔ TỈ HÀ THỊ Ý
8-   01/6/1937     CỤ TỔ KHẢO TRẦN KHẮC TRI (Tức Khắc Chon)
      10/12/1961   CỤ TỔ TỈ NGUYỄN THỊ CHẮT
     Phần 4
1-   07/8/2002     CỤ HIỀN KHẢO TRẦN ĐÌNH PHÚ
      24/10/2000   CỤ HIỀN TỈ ĐẬU THỊ LAN

      16/7/2017     ĐỆ HUYNH TRẦN ĐÌNH THẮNG





   QUÊ HƯƠNG!
                                                                                     (Tham khảo theo Cụ Trần Đình Khoa)

 Quê hương chúng ta ở xã Sơn Thịnh, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm xóm Thịnh Nam, Tổ Khảo Trần Khắc Tri sinh ra ở xóm Thịnh Nam, sau khi xây dựng gia đình ra ở xóm Thịnh Bình. Nguyên tên xã Sơn Thịnh xưa kia là thôn Chàng Xá, lau lách um tùm, dân cư thưa thớt, Cụ Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn của chúng ta đã về đây lập ấp, khai khẩn phát triển ngày càng phồn thịnh.
  Thôn Chàng Xá ta xưa có sông chảy qua giữa làng, có vực sâu thẳm sau bồi thành đồng ruộng, nay gọi là đồng Vực ở giữa xóm Tây, xóm Cống ta và có cầu làng Vạn là chỗ ngư dân ở trước, tức cái cầu nhỏ ở gần xóm Soi, có nhiều Bàu ao ở xóm Bàu, cũng là chỗ dòng sông chảy qua, hiện còn có cái Trọt (Ngòi) chảy từ chợ Gôi xuống qua cầu Nhà Thánh xuống xóm Bàu Thượng ra Bến Cơn Bàng. Sau này chỗ bồi, chỗ lở dòng sông chảy giáp làng Choi như ngày nay, nhưng còn cắt xóm Dinh sang bên làng Choi. Người đến lập ấp, định cư sinh nở ngày càng đông đúc, trong đó có con cháu Thủy Tổ họ Trần ta, nên Tràng Xá dần dần sau này đổi thành Thịnh Xá, rồi lại đổi thành xã Sơn Thịnh ngày nay.
 Thịnh Xá phía Bắc có núi Thiên Nhẫn (Núi Nại), phía Nam có sông Ngàn Phố, phía Đông giáp làng Văn Giang, có cái Hói (Ngòi) chảy qua giữa hai làng, phía Tây giáp làng Gôi Mỹ. Thịnh Xá chia làm 12 xóm:
1-     Xóm Tây là xóm Thịnh Nam, là nơi cụ Tằng Tổ Khảo Thi Sĩ Trần Xuân Cẩm (Đời thứ 7) ở và chỉ cách đường là nhà thờ lớn họ Trần ta, hiện nay ông trưởng tộc là Trần Đình Nguyên (Đời thứ 10/30) ở trên toàn bộ đất của cụ Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm. Là xóm có đền thờ Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, đền Bạch Vân, có nhà Thánh và chùa.
2-     Xóm Bàu Thượng (Thịnh Thượng).
3-     Xóm Bàu Hạ - Xóm họ Đặng Cán.
4-     Xóm Trang.
5-     Xóm Hà (Thịnh Mỹ).
6-     Xóm Thượng còn gọi là xóm buôn ven sông Ngàn Phố, có bến Cơn Bàng và bến Cầu Bãi. Họ bên ngoại của ta ở bến Cơn Bàng.
7-     Xóm Xoi ở ven sông Ngàn Phố có bãi cát gọi là bãi Bè (Vì trước có phiên chợ bán các bè gỗ, bè nữa). Nhà Cụ Tổ Khảo Trần Khắc Tri và Cụ Hiền Khảo Trần Đình Phú của chúng ta ở đây, nay là xóm Thịnh Bình.
8-     Xóm Cống ở chân núi Thiên Nhẫn.
9-     Xóm Đông ở ven sông Ven Hói giáp làng Văn Giang.
10-   Xóm Vườn giáp bãi Hói.
11-   Xóm Cồn.
12-   Xóm Dinh giáp Choi và Cam Mỹ.


        Sau cách mạng tháng Tám – 1945, Thịnh Xá và Văn Giang sát nhập làm một gọi là xã Thịnh Văn. Văn Giang, phía Tây giáp Hói, phía Nam giáp sông Ngàn Phố, phía Bắc và phía Đông giáp núi Thiên Nhẫn. Qua Chuông Mèn sang bên kia là xã Nam Kim huyện Nam Đàn – Nghệ An. Năm cải cách ruộng đất, cán bộ đội đổi xã Thịnh Văn là xã Sơn Thịnh như ngày nay.
       Xã Sơn Thịnh chúng ta cách Vinh chừng 30 km, các cụ xưa kia thường đi lại như sau:
       Đi ô tô khách qua Bến Thủy lên Đức Thọ, xuống ô tô ở Linh Cảm đi bộ đến chợ Choi thì xuống đi đò sang sông là đến chừng 6 km, đi đường sông thì xuống ca nô ở Bến Thủy đi lên Linh Cảm. Nếu đi xe đạp từ Vinh về Sơn Thịnh: Từ cầu Tràng Tiền lên chợ Tràng (13km) từ chợ Tràng qua sông Lam đến Vĩnh Đại rồi đến chợ Trổ (5km), đến Đức Thọ (7 km), từ Đức Thọ đến Linh Cảm (3 km) rồi về chợ Choi, ngày nay đã xây cầu Mỹ Thịnh, không phải đi đò. Nếu đi bộ từ Vinh đến Nam Kim – Nam Đàn rồi trở lại Tân Hợp (9km), từ Tân Hợp qua Chuông Mèn đến Thịnh Xá (7km).
       Ngày nay, từ Hà Nội đến bến xe Nước Ngầm về quê đi xe Hương Sơn xuống ngã ba Nầm rẽ phải về cầu Mỹ Thịnh đi qua cầu rẽ trái 30 m là đất của cụ cố ngoại có nhà cụ Đậu Phan, cụ Đậu Tam, cụ Đậu Cẩu. Nếu theo đường Hồ Chí Minh đến thị trấn Phố Châu huyện Hương Sơn - Tới quốc lộ 8, rẽ trái đi 15 km về ngã ba Nầm rồi về cầu Mỹ Thịnh, nếu đi 14km rẽ trái qua cầu treo ở Nầm rẽ phải khoảng 2 km rẽ trái 300m rồi rẽ phải 100m là tới nhà ông Trần Thanh Bình (Đời thứ 10/30) ở xã Sơn Ninh, gần trường tiểu học, bưu điện xã Sơn Ninh. Nếu đi từ thị xã Hồng Lĩnh về theo quốc lộ 8A, qua cầu Linh Cảm nếu rẽ phải qua xã Sơn Tân về cầu Mỹ Thịnh, hoặc đi theo đê Sơn Tân (Đường 8 cũ) về cầu Mỹ Thịnh đường nhỏ khoảng gần 6km, nếu đi theo quốc lộ 8A tới ngã ba Nầm rẽ phải về cầu Mỹ Thịnh (Đường to khoảng gần 15km).
       Qua cầu Mỹ Thịnh nếu đi thẳng khoảng 500 m đến ngã ba rẽ trái về nhà thờ lớn họ Trần, bên cạnh nhà thờ là đất của Can nội tức Cụ Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm (Đời thứ 7), hiện nay (Năm 2017) nhà ông Nguyên tộc trưởng ở tất cả.
       Nhà của Cụ Cố Tổ Khảo Trần Khắc Tri (Tức Cụ Chắt Chon - Đời thứ 8) hiện nay không còn nhà, đất vì cụ Thêm ở sau cùng, đến khoảng trước năm 1980 đã bán hết chuyển lên Sơn Quang và nhà của Cụ Hiền Khảo Trần Đình Phú của chúng ta Hiền Khảo đã bán từ sau khi chuyển ra Hà Nội khoảng năm 1960 và đã đưa hết tiền cho Tổ Tỉ. Nhà của Tổ Khảo và Hiền Khảo đều ở xóm Xoi sau này thay đổi gọi là xóm Thịnh Bình, gần trường tiểu học Sơn Thịnh, nhà nhìn ra sân bóng đá ven sông Ngàn Phố.
       Phần mộ Tổ Tiên ở núi Thiên Nhẫn (Rú Nại), đường từ cầu Mỹ Thịnh đi thẳng khoảng 4 km, qua cánh đồng là nhìn thấy núi, khi đi đến ngòi (Hay cái khe), có cầu, có cây to, đứng nhìn lên phía Bắc khoảng 500m núi Nại. Núi Nại có 3 ngọn: Ngọn ở giữa gần đỉnh là khu mộ của Cụ đệ nhất Thủy Tổ  Khảo Trần Đăng Nhàn - Đời thứ 1. Khu mộ của chi họ chúng ta ở phía Tây núi Nại gần đỉnh núi, tức từ làng đi lên nhìn vào núi thì ở bên trái là khu mộ của Cụ Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm. Mộ của Cụ Cao Tằng Tổ Khảo Trần Đức Mỹ, nếu từ trên khu mộ của Cụ Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm (Can nội) đi xuống chân núi(Chỗ vừa đi lên) theo hướng Tây qua đường thì mộ nằm trong vườn nhà dân, sát với tảng đá to thì mộ dựa sát vào đấy hiện chưa xây, ngày 30-11-2013 (Tức 28/10 Quý Tỵ) tôi và ông Nguyên trưởng tộc đi tìm song không thấy nữa bây giờ cây cối um tùm, hỏi lại họ hàng thì ông Thủy (Ông là cháu đời thứ 4 của Cụ Tằng Tổ Trần Cường là em ruột Cụ Tằng Tổ Khảo Trần Xuân Cẩm của chi họ chúng ta) nói vẫn đến thăm mộ ở đấy khi về quê.
        Quê hương của chúng ta có nhà thờ Đại Tôn, có các phần mộ của Tổ Tiên, từ Cụ Nhất Đại Thủy Tổ Khảo Trần Đăng Nhàn đến Cụ Đệ Bát Tổ Khảo Trần Khắc Tri, còn nhiều di tích lịch sử, nhiều việc phải làm như: Phải tôn tạo sửa chữa nhà thờ lớn, khu mộ của họ ta và các ngôi chưa đến, phải tìm hiểu, sưu tầm vì vậy tất cả con, cháu, chắt, … đều phải hướng về và đóng góp xây dựng, để duy trì, để bảo tồn nhà thờ họ, các di sản của Tổ Tiên để lại được trường tồn muôn đời.,.
                                                                                          BIÊN SOẠN
                                                                                  
                                                                                   KS TRẦN ĐÌNH VIỆT
                                                                          Trưởng chi I – Đời thứ 2/10/30





ĐỜI THỨ – 29

ĐỆ NHẤT HIỀN  KHẢO
TRẦN ĐÌNH PHÚ
CHI  3





   ĐỜI THỨ – 30

   ĐỆ NHỊ TRƯỞNG HỌ
   ÔNG TRẦN ĐÌNH VIỆT
  CHI – 1





  ĐỜI THỨ – 31

   ĐỆ TAM TRƯỞNG HỌ
   ÔNG TRẦN ĐÌNH QUÂN
  CHI – 1












Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét